PHẦN 27

(Năm 1500 Đến 1600)
NHỮNG LÀN GIÓ CANH TÂN

Chúng ta thấy Cơ-Đốc Giáo đã lan tràn khắp Châu Au vào thời Trung Cổ. Hội Thánh tiến vào lấp chỗ trống tâm linh do sự sụp đổ của Đế Quốc La Mã gây nên và nhận lãnh trách nhiệm đem nhân loại đến văn minh. Giáo lý Cơ-Đốc đặt ra các tiêu chuẩn hạnh kiểm giảng dạy thanh bần và bình an. Cơ-Đốc Giáo gây một niềm hy vọng vượt lên trên mọi hoàng cảnh để nâng đỡ những kẻ tầm thường. Nhờ Cơ-Đốc Giáo các tài năng và những kiến thức của Hy Lạp và La Mã được bảo tồn. Cơ-Đốc Giáo khai hóa dân man rợ và đón tiếp họ vào đại gia đình. Sau hết, Hội Thánh đã lập nên một sự thống nhất mới, bao gồm cả Au Châu, tại miền Tây, Giám Mục La Mã, tức là Giáo Hoàng đứng trên hết kể cả luật pháp và xét xử. Mặc dầu vẫn còn chống đối song ông vẫn duyệt y kết quả sự bầu cử của các Giám Mục khác, kiểm soát giới tu sĩ và các tu viện, phái đại diện đến các triều đình, và trên uy quyền trần tục ông vẫn đứng trên các Hoàng Đế, các vua và các bậc cầm quyền khác. Dùng thế lực tài chánh, ông định tầm quan trọng của các giáo hạt, giáo phẩm, định lệ phí cho một số dịch vụ và thu từ mỗi gia đình Cơ-Đốc một số tiền nhỏ hằng năm gọi là ‘đồng xu Phi-e-rơ’. Bởi ông có quyền dứt phép thông công, không những chỉ cho một cá nhân, và có khi cả một nước, được nhận bí tích và sự thông công với Hội Thánh, cho nên ông có quyền lớn. Ông tuyên bố Giáo Hội là cơ cấu duy nhất khả dĩ đi giảng lời dạy dỗ của Chúa Giê-xu Christ và cứu các linh hồn cho được sự sống đời đời. Ngoài Hội Thánh, không ai có thể được cứu. Bởi vậy, thời Trung Cổ, đời sống của mọi người nam, nữ hay thiếu niên đều ở dưới quyền Hội Thánh. Tuy nhiên, các thương gia, hoặc thợ chuyên môn không biết Chúa, và các hội đồng hoàng gia chống đối quyền của giới tu sĩ, và luật đạo.
Giữa thế kỷ 14, các cơn gió canh tân bắt đầu thổi. Tình thế chung đã được thiết lập bấy giờ đang chuyển sang giai đoạn giao thời, về tôn giáo, chính trị, kinh tế văn hóa và trí thức. Các lãnh Chúa, thế lực sút kém vì gánh nặng kinh tế do các cuộc thánh chiến gây nên, và những trận chiến gây hoang tàn, nay được thay dần bằng những chế độ quốc gia trong đó dân chúng được quyền lên tiếng. Nô lệ không còn nữa vì kinh tế tiền tệ mới phá hủy dần tập tục ấy. Giới trung lưu trở nên lớn mạnh, thương mãi và kỹ nghệ lan rộng, các thành thị trung cổ mở mang thành quan trọng hơn. Các thuyền nhỏ mong manh, được thay thế dần bằng các tàu đi trên biển cả và nhờ máy đo sao, và địa bàn nên đi xa và trở về bến an toàn.
Hội Thánh vẫn đứng đầu trong những thành quả to lớn thời Trung Cổ về học vấn, nghệ thuật, văn chương và đã thao luyện nhiều trí óc xuất sắc thời bấy giờ, vẫn tiếp tục nuôi dưỡng các học giả và văn minh Tây Phương từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 17. Hội thánh đỡ đầu cho mọi thành công về nghệ thuật, văn chương và nghiên cứu. Nhiều nhà nhân văn đầu tiên, những học giả của nền ‘kiến thức mới’ là những tu sĩ.
Nền ‘kiến thức mới’ được phát triển thêm khi quân Thổ Ottoman chiếm Constantinople vào năm 1453, và các học giả Hy Lạp, mang theo những sách quý cổ điển Hy Lạp và La Mã, chạy trốn về phương tây. Vì say mê đón nhận những tư tưởng và hình thức cổ điển, tất cả những gì tự nhiên và hợp với nhân tính, nên các nhà nhân văn học bỏ những khảo cứu trừu tượng và hệ thống tư tưởng Cơ-Đốc theo phái triết học Aristotle. Các đại học Au Châu đều quen thuộc với các bộ sách cổ điển Hy Lạp La Mã, giới tu sĩ sợ những điều dạy dỗ đạo đức của Cơ-Đốc Giáo bị lấn át. Nhưng dần dần các Giám Mục cũng như các hoàng thân đều đón nhận ‘kiến thức mới’. Giáo Hoàng Nicolas V, cũng là một học giả cổ điển quen thuộc, giữa thế kỷ 15, thành lập thư viện Vatican và quyết định đỡ đầu các công trình nghiên cứu cổ điển. Nhiều nhà nhân văn học bắt đầu quan tâm đến những bản văn Cơ-Đốc đầu tiên và nghiên cứu Kinh Thánh theo một quan điểm mới mẻ. Những điều này cách mạng hóa quan điểm tôn giáo tại Tây Au Châu và dọn đường cho thời kỳ cải cách.
Đến cuối thời Trung Cổ (thế kỷ 15) tất cả những thay đổi trên tạo nên nhiều đảo lộn, báo hiệu một thời kỳ hát triển mới của nhân loại đang đến gần. Người ta thêm niềm tin vào con người và những khả năng vô hạn của con người. Nhân phẩm, giá trị của các các nhân nam nữ được chú ý hơn, đây là điều dạy dỗ căn bản của Cơ-Đốc Giáo, thể hiện qua mối quan tâm đến an sinh của mọi người. Thế kỷ 14 và 15 có nhiều bằng chứng cụ thể là thời đại mới đã mở đầu. Cuối chương 20 đã nói đến ông Wycliffe, người được gọi là ‘sao mai của thời kỳ cải chánh’ đã trồng hạt giống, dù chính quyền bắt bớ, thiếu phương tiện truyền thông tư tưởng, hạt giống ấy cũng sẽ đem về một mùa gặt hái.
Nghề in được sáng chế và trở thành một yếu tố mạnh mẽ trong cuộc Cải Chánh. Năm 1455, quyển sách đầu in ra bằng chữ kim loại ở thế giới Tây Phương là quyển Kinh Thánh tiếng La Tinh do xưởng in của Gutenberg tại thành phố Mainz trên bờ sống Rhine phát hành. Hai mươi năm sau tại Anh, William Caton được khuyến khích lập xưởng ấn loát và in quyển sách đầu tiên ngay nơi phát chẩn từ thiẹn của tu viện Westminster, nhờ mối quan tâm và đỡ đầu của một nhà từ thiện, là bà Margaret Beaufort, dòng dõi vua Edward III và mẹ của vua Henry VII.
Lề lối sinh họat của thời Trung Cổ thay đổi dần dần, dân chúng bắt đầu chống lại những lạm dụng len lỏi trong các tổ chức tôn giáo của họ và tra vấn những điều mê tín bấy lâu nay vẫn được chấp nhận không bàn cãi. Nhiều hình thức tôn giáo từ bao lâu nuôi dưỡng tâm linh họ nay họ cho chỉ là những công thức trống rỗng không thỏa mãn được đời sống nội tâm của họ, Giáo Hội cần phải thích ứng với thế giới chung quanh. Giáo Hội cần được Cải Chánh. Tiếc thay, Giáo Hội dính líu vào chính trị và quyền hành trong nước quá chặt chẽ nên khi thời cải cách đến, nứt rạn đã xảy ra làm tan vỡ nền hợp nhất mà Hội thánh đã giữ được trong quá khứ.

DESIDERIUS ERASMUS (1466 – 1536)
Erasmus, một nhà văn học Hòa Lan, đã gây ảnh hưởng mạnh trong thời đại của ông và ông là một nhà tiên phong của phong trào Cải Chánh. Tuy sinh ở Rotterdam, nhưng ông sống nhiều năm tại Pháp, Anh, Ý , Đức và Thụy Sĩ, vì ông là một người quốc tế ‘coi t hế giới như là một quê hương chung của mọi người’. Khi mới lên 9 tuổi, học ở một trường ở Deventer, ông đã tỏ ra có nhiều hứa hẹn vì có trí nhớ rất sắc và ham học. Một bạn học của ông là Adrian ở Utrecht, sau này dạy học cho Hoàng Đế Charles V và sau cùng trở thành Giáo Hoàng Adrian VI. Ông cố gắng bài trừ các tệ đoan đạo đức và hành chánh, nhưng chưa đầy hai năm thì ông qua đời. Ông là vị Giáo hoàng cuối cùng không có quốc tịch Ý, cho đến khi John Paul II được bầu làm 1978.
Khi Erasmus độ 18 tuổi, cha mẹ ông mất, vì nghèo ông phải vào tu viện, ở đó ông rất chăm chú tra cứu trong thư viện. Tuy nhiên, đời sống trong tu viện quá bình lặng, đến nhà nguyện và làm các việc hằng ngày, và ông chán vì chẳng có ai đủ học thức cao để đối thoại. Sau đó ông xin được ra khỏi tu viện và vào đại học Paris. Để tự túc, ông dạy học, trong các học trò của ông có Lord Mountjoy, vị này mời ông sang Anh và giới thiệu ông với một nhóm nhân văn học xuất sắc ở Oxfoxd. Họ lấy các sách cổ điển và Kinh Thánh làm nền móng cho việc dạy học, vì họ tin rằng những tài liệu trên sẽ soi ánh sáng mới vào những chân lý cũ. Xem bức thư dưới đây do ông viết, ta biết ông đã rất vui thích về những người ông gặp và mọi điều ông thấy ở Anh ‘không khí dịu, thoáng và dễ chịu, người thì nhạy cảm và thông minh, nhiều người có học, biết văn chương cổ điển. Khi Colet giảng, tôi tưởng đang nghe Plato. Linacre (sau này làm Bác sĩ cho Henri VIII) là một nhà tư tưởng sâu sắc, tôi chưa hề gặp ai như vậy. Grocyn có kiến t hức rất rộng rãi. Thomas More có một tính tình thật là dịu dàng vui vẻ. Số sinh viên học văn chương cổ điển ở đây thật là đông.
Gặp những người bạn mới này khiến ông càng thêm thích văn chương cổ điển. Tất cả sau này đều nổi danh. John Colet, trước đã học tại Ý và Pháp, giảng cho một số đông sinh viên Oxford về đời sống và những thư của Phao-lô. Vì Colet tin rằng cần phải tìm về nguồn gốc từ Kinh Thánh, nên ông khuyên Erasmus học chữ Hy Lạp và dốc lòng tra cứu Tân Ước trong ngôn ngữ của sách này. Sau này Erasmus viết thư cho Colet như sau: ‘Ông tìm cách đem trở lại Cơ-Đốc Giáo của các Sứ Đồ và cất bỏ những gai góc rườm rà mọc lên bấy lâu nay, thật là một công trình cao quý”
Năm 1501, Erasmus trở lại Anh, Thomas More lúc đó mới 22 tuổi, đưa ông đến lâu đài Eltham gần Greenwich, nơi con cháu của hoàng gia thường đến đổi không khí. Tuy vua Henry VII, Hoàng Hậu và con cả là Arthur không có mặt, Erasmus có gặp Hoàng Tử Henry và hai người em của hoàng tử : một người là Margaret, sau làm Hoàng Hậu Scotland (Tô Cách Lan) và là bà của Mary vừa mới lên ba, sau này là Hoàng Hậu nước Pháp một thời gian ngắn và sau đó trở nên bà của Lady Jane Grey. Erasmus rất thán phục cách cư xử của Hoàng Tử Henry, mới lên 9, song có nhiều năng khiếu và học giỏi, cũng đã nghe đến đời sống trí thức nổi danh của Erasmus và nóng lòng muốn nghe Erasmus nói chuyện. Sau này, 6 năm sau, Hoàng Tử trả lời thư của Erasmus như sau :’Thư của ông làm cho tôi vui nhiều lắm, lời lẽ hùng biện nhưng tôi không khen ngợi thể văn mà cả thế giới ngưỡng mộ’. Vì ông có trí óc thông sáng, viết sách nhiều và liên lạc thư tín với nhiều người, lại nghiên cứu, nên danh tiếng lan rộng ở Châu Au. Về phương diện tôn giáo ông có óc thực tế và ưa điều hợp lý, nên ông tượng trưng cho một quan niệm nhân văn tốt đẹp nhất ở Châu Âu. Ông quen biết và thư từ với nhiều người giỏi thời bấy giờ, và nhiều nhà lãnh đạo , kể cả vua Charles V, Giáo hoàng Leo X, Vua Henry VIII, cũng công nhận ảnh hưởng của ông và vẫn tham khảo ý kiến ông.
Những sách chính của ông viết về các giáo phụ của Hội Thánh như : Jerome, Cyprian, Irenaeus, Ambrose, Augustine, Chrysostom, Basil và Origen. Những bản văn này, cộng với những lời phi lộ do ông viết đều do xưởng in danh tiếng của John Froben tại Basel phát hành.
Nhưng tác phẩm quan trọng nhất là tập Tân Ước nguyên văn Hy Lạp, mà ông dịch ra tiếng La Tinh, kèm những ghi chú liên quan đầu tiên bằng tiếng Hy Lạp có đề tặng cho Giáo Hoàng X là người đã ưng thuận việc thực hiện công trình này. Erasmus phải mất 3 năm từ 1511 đến 1514 dịch quyển này, khi ông giữ ghế Giáo Sư Lady Margaret Beaufort chuyên đề thần học tại Đại học Cambridge do bạn ông là John Fisher đã thu xếp giữ chỗ cho ông.
Quyển Tân Ước của Erasmus đạt kết quả vượt mức, riêng tại Pháp sách bán ngay được 100.000 cuốn. Trong những lần xuất bản tiếp theo, ông thêm nhiều ghi chú và bình luận công khai chống lại những lạm dụng trong Hội Thánh và sự ngu dốt của những người lãnh đạo giáo dân trong Giáo Hội. Ơ thế kỷ thứ 16, người ta thường lấy kinh Thánh làm tòa giảng để phổ biến ý kiến của người dịch.
Cho đến lúc bấy giờ, những tập Kinh Thánh được giấu kín trong các thư viện của tu viện, và chỉ có những người nghiên cứu thần học mới được dùng đến. Thường dân chỉ được biết những đoạn nghe ở nhà thờ, những đoạn này lại được đọc bằng tiếng La Tinh với giọng khó hiểu cho nên sứ điệp của Kinh Thánh không được truyền thông ra quần chúng. Khi quyển Kinh Thánh của Erasmus dịch xong thì các nhà học giả và các người trí thức mới có thể tự mình tìm hiểu những việc thuộc về Chúa Christ, các Sứ Đồ và những đều họ dạy dỗ. Họ có thể so sánh lối sống bất toàn và có lúc thối nát trong Hội Thánh đương thời với Cơ-Đốc Giáo nguyên thủy, một đức tin đã kêu gọi nhiều người trở lại cùng Chúa. Kết quả là một cơn động đất thuộc linh.
Năm 1521 Erasmus viết : ‘Công trình của tôi là phục hồi lại một bản văn dã chọn và nhắc nhở các tu sĩ là chẳng nên cãi nhau về các chi tiết nhỏ mà nên học biết Tân Ước’. Biết Kinh Thánh là một nguyên tắc căn bản của thời kỳ cải chánh. Ngoài công việc tu chánh Kinh Thánh, ông Erasmus luôn luôn bận rộn viết sách hoặc những văn tập nhỏ với lời văn sáng sủa, vui vẻ và dễ đọc của ông. Ông học rộng và rất quan tâm đến những khó khăn trong Cơ-Đốc Giáo, lại vì có đức tính ngay thẳng và viết văn rõ ràng nên người đương thời rất thích đọc sách của ông. Dĩ nhiên ông viết bằng chữ La Tinh, ngôn ngữ thông dụng của các học giả và các nhà trí thức khắp Au Châu. Sách Đối Thọai (Colloquies) là những cuộc đối thoại ông nhạo cười những thối nát của xã hội một cách dí dỏm nhưng đầy lòng thông cảm. Sách Tục Ngữ Cách Ngôn (Adages) bày tỏ ý kiến của ông đối với những vấn đề thông thường. Một quyển khác ai cũng biết là quyển Ca ngợi sự Điên Rồ (the Praise of Folly) trong đó ông tóm lược những cuộc đàm thoại khi thăm hai bạn thân tại Anh: Ông Thomas More, lúc đó đang làm v iệc trong cung vua, và ông John Fisher, giám mục Rochester. Cuộc thảo luận nghiêm trang và có ý buồn, vì ba người bạn cùng nhận biết thảm trạng trong Hội Thánh và không ngớt chê bai lên án những xấu xa và lạm dụng trong đó.
Ông mong rằng khi mọi người biết rõ vấn đề hơn, và khôn sáng hơn, họ sẽ biết những lầm lẫn của họ và từ bỏ, cũng như sẽ chấm dứt những tệ đoan mê tín và những tập tục vô nghĩa của Hội Thánh. Ông thấy trưóc là phong trào Luther đang sửa soạn cơn bão tố, ông cảnh cáo: ‘Đã đành Hội Thánh cần cải cách, nhưng bạo động không phải là đường lối tốt’. Ông còn nghĩ rằng, nếu những người hiểu biết cầm quyền ở Au Châu thì tình hình đã chín mùi để họ đem cải cách đến một cách yên lặng. Nhưng thật ra, điều đó đã không xảy ra.

MARTIN LUTHER (1483 – 1546)
Martin Luther một giáo sĩ dòng Augustinian, học giả Kinh Thánh, giáo sư thần học tại Đại Học Wittenberg, là người châm ngòi lửa đầu tiên cho cuộc Cải Chánh. Cha ông, một thợ mỏ quê mùa, có đức tin, đã phấn đấu từ khi nghèo khó cho đến lúc trở thành một người dân thành thị khá giả. Ông có cao vọng nuôi con đi học để làm luật sư. Luther vào đại học, nhưng ông bị ám ảnh, luôn cảm thấy cảm thấy mình tội lỗi nên ông lánh đời để trở thành một tu sĩ. Có lòng tin kính và hầu việc cách đặc biệt, ông lại có tài giảng dạy và giỏi quản trị hành chánh. Có một thời kỳ tranh đấu nội tâm, ông cảm thấy không đến gần Đức Chúa Trời được mặc dầu với nhiều cố gắng khổ tu và làm ‘công đức’, ông bắt đầu nghi ngờ rằng chưa hẳn Hội Thánh đã có phương tiện đưa đến cứu rỗi. Phải chăng con người phải làm theo những đòi hỏi của Hội Thánh, bí tích và ‘công đức’ mới được nhận ơn của Đức Chúa Trời? Thình lình, lời Phao-lô ở Rô-ma 1:17; vang trong trí ông như sấm sét. ‘Người công bình sẽ sống bởi đức tin’ hay là ‘người được công bình nhờ đức tin sẽ sống’. Ông nói rằng lời này ‘quả thật là cửa thiên đường cho ông’, và từ đó thay vì cố gắng tìm sự cứu rỗi bằng công khó nhọc của mình, ông được yên lòng tin rằng Đức Chúa Trời đã cho ông sự cứu rối ấy. Từ kinh nghiệm cá nhân đó, ông Luther viết ra một giáo thuyết trái với sự dạy dỗ của Hội Thánh cho rằng, con người ‘ chỉ được cứu rỗi nhờ bí tích và công đức’. Ông giảng rằng Đức Chúa Trời ban cho đức tin và đó là điều kiện duy nhất của sự cứu rỗi để thoát khỏi tội lỗi và mặc cảm tội lỗi, để được kể là công bình trước mặt Đức Chúa Trời.
Ông bất bình với Hội thánh khi có những thừa sai của Giáo hoàng Leo X đến Đức để bán những ‘phép xá tội’ (tức là Giáo Hoàng tuyên bố tha cho tội nhân đã ăn năn hay đã chuộc lại lỗi mình, khỏi phải chịu đau đớn vì những tội cũ ấy trong ‘nơi luyện tội’ (Purgatory). Tiền thu đưọc sẽ dùng vào công việc xây dựng lại nhà thờ St. Peter ở La Mã là Toà Thánh của Cơ-Đốc Giáo Phương Tây. Ong Luther coi việc mua bán này là một lạm dụng xấu xa trái hẳn với những chân lý sâu xa của Cơ-Đốc Giáo. Kế đó, ngày 31 tháng 10 ăm 1517 ông viết 95 điều khoản (thesis) lên án việc bán ‘phép xá tội’ đó là 95 đề án danh tiếng mà ông đã đóng đinh vào cửa nhà thờ lớn ở Wittenberg. Ông muốn có cuộc thảo luận để tiến đến cải cách, ông không muốn cách mạng. Nhưng thảo luận thì chẳng thấy đâu, mà 95 điều khoản thì được vô số người chùyen tay nhau và sốt sắng chăm chú đọc. Tình hình đã chín mùi , lòng người sôi động và những biện pháp cứng rắn được thi hành. Thế là Luther đã mở toang cửa ngõ cho cuộc cách mạng lớn nhất của lịch sử Hội Thánh.
Ông tiếp tục giảng dạy và viết bài chống lại những lạm dụng của giới tu sĩ, chống lại uy quyền thiêng liêng của Hội Thánh, lại còn thúc giục hoàng thân tại Đức hãy tách lãnh thổ của họ ra ngoài vòng kiểm soát ngoại lai của Giáo hoàng. Bị triệu đến trước Hội đồng các vùng trong Đế Quốc La Mã thánh, họ tại Worms năm 1521, ông công nhận là ông đã viết tất cả chồng tài liệu chữ Đức, chữ La Tinh, mà các thẩm phán đưa ra, nhưng ông nói ông không thể rút lại những lời ông đã chỉ trích Giáo Hoàng, trừ phi có người tìm được trong Kinh thánh những đoạn thích hợp để vạch ra sự sai lầm của ông. Ông nói lớn :’Tôi không thể làm thế nào khác được. Ông đứng đây, giữ những lời đã nói, Đức Chúa Trời sẽ giúp tôi. Amen’. Hội đồng bèn ban lệnh tuyên bố Luther ở ngoài vòng luật pháp, và không cho phép ai cho ông ta ăn, uống hay nơi nghỉ ngơi. Dầu vậy, ông đã được coi là vĩ nhân và không mấy người quan tâm đến lệnh của hội đồng. Liền sau đó, các bạn ông kiếm ra một nơi an toàn cho ông ẩn náu, đó là tòa lâu đài tại Wartburg của Frederick the Wise, hoàng thân xứ Saxony.
Tại đó ông dịch Tân Ước ra tiếng Đức và xuất bản sách đó năm 1522. Ông không dịch từ bản dịch Vulgate, vì trưóc đó bản La Tinh này đã có người dịch ra nhiều bản tiếng Đức vụng về, nhưng dịch thẳng từ bản văn Hy Lạp đã được in ra sách, nhờ công lao của Erasmus. Trong khoảng 10 năm, vừa tổ chức vừa phổ biến những bài giảng thuyết của ông, ông dịch xong toàn bộ Kinh Thánh. Bản dịch này rất quý giá về phương diện tôn giáo cũng như văn chương vì ông Luther rất giỏi về ngôn ngữ thông dụng; văn ông dễ đọc vì ông dùng nhiều thành ngữ dân tộc và lại trau chuốt.
Lề lối ngôn ngữ của văn chương Đức sau này chịu ảnh hưởng rất nhiều của quyển Kinh Thánh do Luther dịch.
Khi các lãnh thổ Đức nổi lên chống lại Giáo Hoàng, thì có những người tin kính tán đồng vì họ không chịu nổi những lạm dụng của Hội Thánh, cũng có nhừng người vụ lợi đồng ý vì muốn chiếm đất đai và lợi tức của Hội Thánh, và cũng có những người yêu nước không ưa uy quyền của La Mã. Có đủ hạng người ủng hộ Luther : hoàng thân, dân thành thị, thợ thuyền, dân quê, tu sĩ. Họ công kích cả hệ thống cai trị thuộc linh, phép tha tội, dứt thông công, miễn phạt, tuyên bố sạch tội, luôn cả thủ tục xưng tội và các tòa án tôn giáo. Chẳng bao lâu, bạo động bùng nổ, lôi cuốn Đức Quốc vào rối loạn.
Erasmus ở xa xem xét và tỏ ý bất mãn vì những điều dạy dỗ của ông, khi Luther và đồng bạn đem ra áp dụng lại gây kết quả quái đản như vậy, thoạt đầu ông Erasmus viết :’Tôi tán thành những việc có vẻ đầy thiện ý của Luther, tôi có viết thư cho ông ta và khuyên ông ấy rằng nên dùng ngôn ngữ nhẹ nhàng một chút, có lẽ ông sẽ là một tia sáng soi ra ra tối tăm và có thể Giáo Hoàng sẽ trở t hành bạn ông, tôi tin điều đó’. Nhưng sau đó ông lại viết : Tôi không thể tán thành bạo động’ cuộc nổi loạn tại Đức càng tăng độ gay gắt, lòng ông càng thêm lo âu. Ông tự hỏi : Không hiểu cái gì đã thúc đẩy Luther nặng lời với Giáo Hoàng và các học giả Hội Thánh cùng các khất sĩ như thế. Sự trạng đã rối bời lại còn khuấy động thêm có ích gì? Hay Luther muốn đốt cháy cả t hế giới?
Tại hội đồng Speyer năm 1529, đa số các nhà cầm quyền tại các lãnh thổ Đức quyết định ngăn trở phong trào Luther, nhưng có một thiểu số đã thực hiện những cải cách do Luther đề ra và họ ký một thư phản kháng. Bởi vậy, những người theo Luther từ đó được gọi là ‘protestant’ (những người phản kháng),danh từ này nay chỉ về những người không theo sự dạy dỗ và luật pháp của Hội Thánh Công Giáo La Mã.
Năm 1530, một bác học là bạn và đồng nghiệp của Luther ở Wittenberg nhà nhân văn học khiên nhường Philip Melanchthon, soạn một bản tuyên ngôn rõ, gọn, về những tín điều và giáo thuyết của phái Luther, bản tuyên ngôn này gọi là ‘Bản xưng nhận đức tin Augsburg’. Sau khi các hoàng thân phái Luther ở Đức đã công nhận bản văn đó, và tài liệu trên trở thành bản tín điều chính của Hội Thánh Lutheran. Hội Thánh đã có tiêu chuẩn giáo lý, có Kinh Thánh Đức Ngữ, giờ thờ phượng, có thêm hội chúng tham dự vào việc ca ngợi, bằng ngôn ngữ thường ngày của dân Đức, nên Hội Thánh Lutheran phát triển mau, lan sang Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy và trở thành tôn giáo chánh thức tại các nước trên. Riêng tại Đức vẫn phải chia hai nhóm: Các địa phương theo Công giáo La Ma và các địa phương theo Lutheran, tùy người lãnh đạo địa phương ấy theo bên nào.
Những năm còn lại, Luther sắp đặt và phổ biến Tin Lành mới của ông. Năm 1525 ông cưới một bà trước kia là tu sĩ, Katherine Von Bora, một phụ tá quý giá, đem cho ông hạnh phúc gia đình, 3 con trai và 2 con gái.
Mặc dầu bận rộn, ông cũng sáng tác được 30 thánh ca, có một bản tên là Ein Fests Burg. ‘Thành vững mạnh là Đức Chúa Trời chúng ta’. (Chúa vốn bức t hành kiên cố ta rày…) bản này đưọc hát tại các Hội Thánh Tin Lành khắp nơi như tiếng hát đức tin trong trận chiến. Có lẽ Luther đã phỏng theo một điệu ca Gregorian cổ để làm bài hát này. Cả bài, nhất là câu đầu, được khắc vào đài lễ niệm của ông ở Wittenberg, dường như nói lên được cái tiềm lực sống của con người ông.

JOHN CALVIN (1509 – 1564)
Song song với Matin Luther, thế kỷ thứ 16 còn có nhà thần học Pháp John Calvin, là người lãnh đạo phong trào Tin Lành rất nổi tiếng đương thời. Hai người có bản tính trái ngược nhau, Luther có óc sáng tạo hay xúc động và dễ bị hoàn cảnh thúc đẩy, trái lại Calvin sống khổ hạnh, bình thản , biết diễn tả tư tưởng mạnh lạc. Ông sinh vào một gia đình trung lưu khá giả sống tại Noyon đông bắc Paris. Cha ông muốn có chức vụ trong Hội Thánh Công Giáo nên xin được một học bổng cho ông và do đó ông vào được Đại học Paris. Ơ đây ông chuyên tâm nghiên cứu về nhân văn và tập viết văn rất xuất sắc. Một người bà con tên là Olivetan khuyên ông nghiên cứu Kinh Thánh và tập đọc Tân Ước bằng tiếng Hy Lạp. Chính Olivetan cũng là người đầu tiên dịch Kinh Thánh ra tiếng Pháp. Hồi đó những ý tưởng của Luther đã bắt đầu có ảnh hưởng tại Pháp nên không lâu sau đó Calvin gặp được một nhóm nhân văn học không đồng ý với các việc làm và chủ thuyết của Hội Thánh. Khi ông hơn 20 tuổi ông đã được từng trải một kinh nghiệm thuộc linh mà ông gọi là ‘đột ngột trở lại Chúa’ nên từ đó ông tin quyết là Đức Chúa Trời đã phán với ông qua Kinh Thánh và từ nay ông phải vâng theo ý Chúa. Khi ông nhận thấy ông không thể nào tiếp tục nhận trợ cấp của Hội Thánh Công Giáo, ôngbèn khước từ sự giúp đỡ ấy. Dứt liên hệ với Hội Thánh thì ở Pháp khó yên thân, ông mới đi sang Basel, thành phố Tin Lành và trung tâm đại học tại Bắc Thụy Sĩ, nơi Froben đã in bản Tân Ước song ngữ Hy Lạp La Tinh của Erasmus.
Năm 1536, tại Basel, Calvin xuất bản quyển Nguyên Tắc Đại Cương Cơ-Đốc Giáo (The Institutes of the Christian Religion) tóm tắt những gì thuộc về đức tin Tin Lành cổ điên. Sách này trình bày những ý tưởng thần học của những người lãnh đạo đầu tiên, nhất là Luther và nhà cải cách Thụy Sĩ, ông Ulrich Zwingli, lời văn hay đẹp, rõ ràng, mạch lạc. Calvin không công nhận quyền của Giáo Hoàng, nhưng công nhận những giáo thuyết như : Kinh Thánh không sai lầm, con người được cứu duy bởi đức tin, và thuyết lý cho là kẻ tin là đã được lựa chọn trưóc. Ông cũng đồng ý là kỷ luật cần thiết trong Hội Thánh để bảo vệ đạo đức trong sạch của tín hữu. Ông viết một thư trịnh trọng, lễ phép trình tặng quyển sách Nguyên Tắc Đại Cương Cơ-Đốc Giáo cho vua nước Pháp (Francis I) và khi vua 26 tuổi ông đã trở thành người lãnh đạo của Tin Lành Pháp. Theo lời mời của nhà cải cách Pháp Guillaume Farel, Calvin đến Thụy Sĩ năm 1536 để giúp tổ chức Cộng Hòa Tin Lành mới tại Geneva. Ngoại trừ một lần đi xa, ông giữ chức vụ Mục Sư trưởng và giảng sư tại Genveva cho đến ngày tạ thế. Thành phố Genveva dưới quyền lãnh đạo tôn giáo và chính trị của ông trở thành trung tâm Tin Lành tại Tây Au, và người ta gọi ông là ‘Giáo Hoàng Tin Lành’, ông gây dựng một nước ở dưới sự quản trị của Chúa, mọi v ấn đề của dân sự đều do Hội Thánh hướng dẫn.
Hội thánh thì có các Mục Sư hay trưỡng lão (gọi là Presbyter) quản trị. Do đó có danh hiệu Presbyterian. Calvin đề cao những đức tính tân tiến, chăm chú, tiết độ và tinh thần trách nhiệm, ông coi những đức tính ấy rất cần thiết cho sự thể hiện sự trị vì của Đức Chúa Trời trên đất.
Mỗi ngày ông giảng tại nhà thờ, và giải quyết về các vấn đề giáo thuyết và sự quản trị Hội Thánh, ngoài ra ông còn trả lời những câu hỏi về luật pháp, cảnh sát, kinh tế, thương mại và sản xuất công nghệ. Ông liên lạc bằng thư tín rất rộng, viết những sách thần học bình luận về Kinh Thánh và dịch Kinh Thánh ra tiếng Pháp. Ông lập nhiều trường trung và đại học tại Genveva, có nhiều sinh viên từ Anh, Tô Cách Lan và nhiều nơi khác tại Âu Châu đến theo học do đó giáo thuyết Calvin đã được truyền bá khắp nơi xa gần.
Các học giả Anh, muốn xa lánh những cuộc hành hại của Nữ Hoàng Mary, đến Genveva thì tìm đưọc không khí tự do và sự khuyến khích mà họ cần để nhuận chánh lại quyển Kinh Thánh 1539 vì tại đây họ được giúp đỡ nhiều hơn. Người anh rể của Calvin là William Wentingham đã lo việc sắp xếp và in tập Tân Ước Geneva năm 1557. Ba năm sau cả quyển Kinh Thánh được nhuận chánh và in xong, đó là một trong 6 quyển Kinh Thánh tiếng Anh đã được in ra và là quyển chính xác hơn hết và có ghi chú nhiều hơn cả. Khổ sách tương đối nhỏ và mỗi đoạn chia ra thành nhiều câu cho nên rất tiện dụng. Quyển Kinh Thánh này rất thông dụng trong mỗi gia đình, Shakespeare đọc bản văn đó và những người hành hương Puritan cũng đã mang sang Mỹ Châu bản văn đó khi họ đến Plymouth (Massachusetts) năm 1620.
Những người được Calvin huấn luyện đã phổ biến những nguyên tắc của ông đến hầu hết mọi nước ở Au Châu, lập nên một tiêu chuẩn xử thế đạo đức cao giữa tín đồ Tin Lành. Năm 1560 mặc dầu có sự chống đối của Mary, Nữ Hoàng Tô Cách Lan John Knox cũng thành lập được một Hội Thánh cải chánh, tín hữu lấy tên là Presbyterian. Ở Pháp, những người theo thuyết Calvin gọi là Huguénot, ở Hòa Lan, thuyết Calvin được biến thành ra tôn giáo của những người yêu nước, William, Hoàng thân xứ Orange đã lãnh đạo những người này thành lập Công Hòa Hòa Lan. Những người theo Calvin ở Anh lấy tên là Trưởng Lão (Presbyterian) và những người này khi muốn loại trừ mọi ảnh hưởng Công Giáo trong Hội Thánh thì được gọi tên là Thanh Giáo (Puritan). Một số người Thanh Giáo dời sang Massachussetts vào thế kỷ 17. Giáo thuyết Calvin đã ảnh hưởng lâu bền trong văn hóa Au Châu mãi cho đến ngày nay, do đời sống trí thức, lòng tin kính vững chắc, và sự sốt sắng tham gia vào công tác xã hội.