Tôi sinh ngày 15 tháng 5 năm 1960. Tôi tự hào vì tôi là người Việt nam, được sinh ra ở một làng nhỏ ven “sông Hồng” trung tâm Hồ Hoàn kiếm cũng không xa lắm, theo đường chim bay. Quê hương tôi và thủ đô yêu quí. Theo cách nói của mọi người là “gần nhà xa ngõ” nghĩa là chỉ cách một con sông ấy. Vào những năm trước, khi mà ở bên kia sông Hồng và một số xã xung quanh. Đèn điện sáng rực nhưng quê tôi thì chưa, vì mổi năm thường gặp lụt mất vài ba tháng.

Vậy nên nguồn ánh sáng vẫn chưa thể có được. Nhưng quê tôi, những đêm trăng sáng đường làng đông vui nhộn nhịp người qua lại, thanh niên tụm năm tụm ba, chuyện trò vui đùa trong những đêm trăng ấy. Còn lại những đêm khác thường quê tôi chìm trong bóng đêm dày đặc, chỉ có ít ánh sáng của đom đóm, bọ bèo, trong lân tinh mà thôi. Nó cũng như nhiều vùng quê khác của đất Việt.

Dân quê tôi chủ yếu là trồng màu. Ngô, khoai, đậu, cà, cải, bẹ và một số hương liệu khác nữa, mà chỉ tiêu nhà nước giao cho. Tôi được học hành, nuôi nấng bởi miền quê ấy. Không giàu cũng không nghèo. Chỉ đủ ăn quanh năm ngô là nhiều đến nổi có thời kỳ, khi mà còn chiến tranh. Dân trong đê nói vui đùa gọi dân của tôi là thứ dân vo gạo bằng rổ vì ăn toàn ngô. Ấy thế mà người dân quê tôi rất khoẻ mạnh. Đặc biệt là thanh niên nam nữ.

Nhưng cứ mỗi mùa xuân thì quê tôi lại vắng thưa người hơn vì thanh niên nam nữ lại lên đường tòng quân, mẹ tôi may mắn còn 5 đứa con (vì mẹ tôi sống nhiều mà con ít). Theo lời bố mẹ tôi kể lại. Thật hạnh phúc, tôi là một trong 5 đứa con ấy. Bố mẹ tôi chỉ theo nghề nông nghiệp, cuộc sống không khá giả gì. Nuôi 5 đứa con ăn học, lớn lên trong gia đình tôi được đi học rồi giúp đỡ bố mẹ những công việt nhỏ như chăn bò cắt cỏ. Tuổi thơ của tôi cũng như bao đứa trẻ khác cùng lứa nghịch ngợm, bướng bỉnh, đánh chưởi nhau như cơm bữa. Rồi những trận đòn roi của bố tôi. Những lươn, trạch đầy mông đít, lưng. Mỗi khi tôi phạm sai lầm, hàng xóm đến mách bảo, ông không kiềm chế được, và cũng là để dạy con, để con phải vâng lời. Những năm tháng ấy, tôi tưởng ở nhà hay bất cứ nơi đâu, người lớn trẻ con đều nơm nớp lo sợ tính mạng. Khi trên bầu trời luôn có máy bay Mỹ với bom, đạn, tên lửa và các thứ khác v.v.. Những ngày đi học chúng tôi thường mang theo mũ rơm để tránh mảnh đạn theo lời bố mẹ và nhà trường. Cuộc sống lúc đó thật thiếu thốn, khổ sở.Vì khẩu hiệu lúc đó là “tất cả vì miền nam ruột thịt.Và tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Ban đêm tất cả phải ra hầm ngủ không được ngủ trong nhà vì sợ khi máy bay đến sẽ không kịp ra hầm trú ẩn. Bữa cơm thì lúc đói lúc no, chủ yếu toàn ngô. Giờ nghĩ lại cũng thấy ác liệt. Lúc đó tôi tự hỏi “sao người Việt Nam mình lại khổ như vậy”. Nhưng tôi không có được câu trả lời. Thế rồi năm tôi tròn 18 tuổi, tôi nhập ngũ theo tiếng gọi của tổ quốc ngày 15-5-1978. Được huấn luyện 2 tháng tại bãi dù đất Lục Nam Hà Bắc tháng 7 năm 78 đơn vị tôi được lệnh lên biên giới phía bắc – Lạng Sơn : xây dựng công sự, hầm hào trận địa để chuẩn bị trước tình hình diển biến xấu.Vì lúc đó giữa hai nước Việt Nam – Trung Quốc bất đồng. Đơn vị tôi mang tên sư đoàn 3 sao vàng trung đoàn 2 tiểu đoàn 5 đại đội một bộ binh.

Tôi lúc đó là môt thanh niên khoẻ mạnh, vậy nên được giao một khẩu súng khá to (B-41) Liên Xô, gọi là hoả lực, và được học kĩ càng cách sử dụng, và một số vũ khí khác mà người lính khi ra trận cần biết sử dụng khi cần thiết.

Vào bộ đội những tưởng được suớng hơn, nào ngờ hơn 4 năm trong quân ngũ thật là một cực hình. Một ngày 5 mét hào rộng trên 80 cm dài dưới 60cm sâu 1,2 mét rồi các loại công sự khác. Tuổi mới lớn, tuổi ăn, tuổi ngủ nhưng phải vào khuôn khổ. Thật khó chịu vô cùng. Nhưng phải nghiến răng chịu đựng. Rồi những cuộc hành quân chiến thuật, điều lệnh quân đội v.vv. lăn lộn với những vùng đồi cao. Lạnh giá khi mùa đông cũng chỉ có chiếc áo trấn thủ gọi là 36 đường gian khổ lúc bấy giờ. Ngày 17 tháng 2 năm 79 chiến tranh đã xảy ra, và trong những ngày chiến đấu bảo vệ tổ quốc tôi chứng kiến bao nhiêu cái chết đau thương của cả hai phía Trung Quốc và Việt Nam. Mấy lần tôi thoát chết. Đơn vị tôi còn lại thật ít người. Nhiều người ra đi vĩnh viễn không trở về. Thật là kỳ diệu cho tôi, như có quý nhân phù hộ. Tôi sống sót sau những ngày ác liệt ấy. Tôi chỉ thầm cảm ơn trời phật (lúc đó tôi cũng không biết ĐỨC CHÚA TRỜI cho tôi được sống). Năm tháng qua đi tôi được xuất ngũ về địa phương. Năm 1983 tôi xin vào cơ quan nhà nước. Cơ quan tôi có tên gọi “Công Ty Vận Tải Hàng Hoá – Hà Nội”. Vào cơ quan, môi trường mới tôi cũng thầm mong ước để bằng chúng bạn. Quyết phấn đấu hết mình, vừa thử sức và mong muốn đạt được vị trí nào đó nữa cơ. Cùng những ngành lứa công nhân tôi được kết nạp vào đảng cộng sản Việt Nam niềm mơ ươc của nhiều thanh niên lúc bấy giờ. Có trình độ mà không có đảng thì cũng không phát triển được đó là điều hiển nhiên lúc bấy giờ.

Vào đảng rồi là một đảng viên.Tôi vẫn không tự thay đổi mình được, không bỏ được tật xấu (rượu, chè, thuốc lá .v.v.) rồi nhiều tội khác nữa. Tôi vẫn là một công nhân bình thường – thợ sửa chữa ôtô (ráo mồ hôi hết tiền) nói chung cũng không khác gì. Niềm vui trong cuộc sống thật hiếm hoi, ít ỏi. Rồi tình yêu đến, và tôi đã yêu như bao người con trai khác khi đến tuổi trưởng thành.Thế rồi tình yêu đầu đời không thành, và cũng qua một vài mối tình khác.

Trong năm 1985 tôi đi Nga lao động những mong được đổi đời. 5 năm xa quê hương tiếp theo, tưởng trời tây đất tây cuộc sống mới được thay đổi. Nào ngờ được tiếp xúc nhiều cám dỗ hơn. Tôi lại lao vào nhiều đam mê khác. Học võ, tán gái, rượu vốtka. Ba năm thoáng trôi nhanh. Bạn bè chăm lo đàng hoàng về phép. Còn tôi vẫn tay không. Thật là buồn và tự hận mình kém cỏi. Rồi tôi cũng vay mượn bạn bè và được giúp đỡ của anh em cùng đội lao động. Tôi về thăm nhà theo phép hiệp định. Năm 1988, một tháng về nhà tôi càng uống rượu nhiều hơn, thuốc lá hút nhiều hơn những lúc buồn vui nhưng chẳng giải quyết được gì. Kêt thúc hạn phép tôi quay trở lại Nga, tiếp tục cho hết hợp đồng.

Thật vô nghĩa khi kết thúc 5 năm, kết quả chẳng có gì, buồn và chán nản vô cùng, cầm hộ chiếu, vé máy bay về Việt Nam năm 1990, khi cho bạn bè ở sân bay Seremetrevơ, tôi đã quay ra (cửa VIP) ở lại Mátxcơva. Năm 1991 tôi tổ chức đám cưới và sinh một cháu trai. Cuộc sống bắt đầu có những khó khăn mới cho tới kỳ nước Nga thay đổi chế độ. Cũng như hợp đồng lao động không còn hiệu lực. Người lao động khắp liên bang Nga về nước. Một số đã ở lại sống bằng nghề buôn bán nhỏ. Tôi và vợ con tôi là người trong số ấy.

Tôi cũng như bao người đàn ông Việt Nam khác sống tại Mátxcơva ham chơi cờ bạc rượu chè và những cuộc chơi vô bổ. Cuộc sống không niềm vui, không mục đích, không ngày mai. Thật buồn và chỉ có rượu mới giải sầu được. Tôi là một gã nghiện rượu. Mổi ngày tôi uống một đến hai chai vốtka, thuốc lá một hai bao là chuyện thường, thêm vào đó nhiều khi bỏ bê công việc, vợ con. Năm 1992-1993 bạn tôi mở nhà hàng mời tôi làm việc, lại tiếp xúc với đủ thứ, thức đêm, hôm làm bảo vệ nhà hàng. Rồi làm những việt nhà hàng có. Trong đó có việc mua (bán dâm) cho khách làng chơi – dẫn gái .v.v.. Tôi có rất nhiều địa chỉ của các ông chủ chăn dắt gái mại dâm ở Mátxcơva. Lúc đó lại có đội ngũ bảo kê tây cho nhà hàng bán đầy tội lỗi, việc làm tội lỗi càng chồng chất. Tôi cũng không biết tự giải thoát cho mình bằng cách nào, thật bế tắc. Cho đến ngày nhà hàng đóng cửa. Tôi lại trở về cùng vợ con và cuộc sống thường nhật. Cho đến một ngày chút nữa thì hạnh phúc của vợ chồng tôi bị đổ vỡ, không cứu vãn được. Tôi vẫn không tự thay đổi cuộc sống mình được, để cuộc sống khá hơn. Thật chán ghét cuộc sống.

Vào mùa đông năm 1995. Khi tôi đang sống ở ôp Sôkôn 6. Một buổi tối, sau bữa tiệc cùng bạn bè, ngồi uống trà và hút thuốc nói chuyện phiếm, tôi được nghe mấy sinh viên Việt Nam tại Mátxcơva – họ đi giảng đạo trong ôp đôm 6 với những gì tôi nghe họ nói cho người khác, thì lòng kiêu ngạo và tính hung hăng trong tôi trổi dậy (cộng với hơi men) đã thúc tôi khiêu chiến với họ. Mắng mỏ, doạ nạt họ. Chửi rủa họ những kẻ vô công rồi nghề – đi làm cái việc vô bổ, vớ vẩn, tuyên truyền những điều nhảm nhí để mê hoặc.

Họ kể có một Chúa JESUS là con ĐỨC CHÚA TRỜI đã đến thế gian, được sinh ra như một con người bình thường, lớn lên và đi giảng đạo của ĐỨC CHÚA TRỜI, chữa lành cho những người bị bệnh tật, làm sáng mắt kẻ mù, chữa khỏi kẻ què .v.v.. làm sạch những người bệnh hủi, làm bạn với những người đau khổ nâng đỡ những người ngã lòng, giúp người sống không mục đích, những người không có đức tin trở nên mạnh mẽ. Và Chúa JESUS bị đóng đinh trên thập tự giá vì tội lỗi của cả nhân loại.Trong đó có tôi, một người mang đầy tội lổi mặc cảm.

Sau 3 ngày kể từ khi chết trên cây thập tự giá, Ngài đã được ĐỨC CHÚA TRỜI khiến cho sống lại. Và hiện nay Ngài đang ngồi bên hữu ĐỨC CHÚA TRỜI.

Sau khi trực tiếp nói chuyện cùng họ, bổng dưng tôi bị bắt phục, và trong tôi không còn sự kiêu ngạo nữa. Họ kêu gọi ai muốn đến với Chúa ngay lúc đó thì họ sẻ giúp đỡ, giới thiệu cho đến với Ngài. Vậy là có một người chuẩn bị đưa vợ và con về Việt Nam. Trong chuyến bay, ông ấy đã tin nhận Chúa và đã nhờ anh em Việt Nam ấy cầu nguyện Chúa chúc phước và gìn giũ chuyến bay đó an toàn. Trong gia đình tôi có một người anh em ở cùng, lúc đó bị bệnh gan đã tiếp nhận chúa, đi hội thánh, được hội thánh cầu nguyện. Chúa động chạm và chữa lành cho anh ta.Về nhà anh ta làm chứng với tôi điều đó. Tôi cũng bán tín bán nghi là có Chúa thật không. Trong những ngày đó, con trai của chúng tôi thường bị ho. Liên tục phải tiêm uống thuốc, chúng tôi rất buồn mà không biết phải làm gì ngoài trông chờ vào bác sĩ và những viên thuốc kháng sinh. Vào một ngày anh em tin Chúa JESUS – họ đến thăm người anh em ở cùng tôi. Họ hỏi thăm mọi người, tiếp xúc với họ, tôi cảm thấy họ học hành rất tốt, khôn ngoan, khiêm nhường, nhu mì.Đặc biệt họ có điều gì đó mà tôi cũng như bao người khác không có Chúa không thể có được. Đó là sự bình an vui vẻ. Tôi ước ao điều này.Thế rồi vào một ngày mùa đông ấy, họ mời vợ chồng tôi đến hội thánh. Tôi không đi, nhưng người vợ yêu dấu của tôi mong tôi đi đến hội thánh nhờ họ cầu nguyện và nghe giảng vợ tôi đã tiệp nhận Chúa JESUS làm cứu Chúa của đời sống mình. Tối đó về tôi thấy con trai tôi đỡ ho hẳn. Trong lòng tôi suy nghĩ hay là có Chúa thật. Trước đó tôi cũng như bao người Việt Nam khác “thôi thì ông, bà, bố, mẹ thờ ai thì mình cũng vậy. Bố mẹ thờ cúng ông bà tổ tiên thì mình cũng vậy. Lòng tôi tranh đấu, chẳng lẽ mình lạc loài, một mình mình lại đi riêng con đường khác họ, rồi bị họ lên án, cho là mình bị bỏ bùa mê thuốc lú … không còn tỉnh táo nên nhắm mắt nghe theo.

Nhưng rồi tôi cũng được sự động viên của những anh em tin Chúa. Tôi đã quì gối ăn năn, tiếp nhận Chúa JESUS vì họ nói ai kêu cầu danh Chúa thì đều được cứu. Lúc đó tôi đang cần nhiều thứ: công việc, hạnh phúc, tiền bạc .v.v.. Đặc biệt tôi mong muốn được Chúa tha thứ tất cả tội lỗi của tôi. Đó là gánh nặng trong cuộc đời và tôi mong nuốn được thay đổi đời sống. Tôi thường đi buổi nhóm cùng anh chị em tin Chúa. Buổi nhón thường bắt đầu bằng việc hát ca ngợi Chúa – tôn vinh vinh hiển Ngài nghe giảng lời Chúa. Kết thúc là phần cầu nguyện chung (tức là ai có nhu cầu gì thì nêu ra để anh chị em cùng cầu nguyện xin Chúa giúp đỡ. Một thời gian sau tôi được Chúa thăm viếng và chúc phước, gia đinh đã vui vẻ trở lại. Tôi cũng xin Chúa giúp cho tôi bỏ rượu và thuốc lá cùng trong một ngày cho đến giời đã gần 10 năm trọn.

Dần dần tôi ham muốn đọc lời Chúa, quyết tâm làm theo lời Chúa dạy trong kinh thánh. Rồi một ngày kia Chúa đã làm phép báp-têm cho tôi, ban cho tôi có được sự bình an thật trong lòng. Thật tuyệt vời vì từ nhỏ đến lớn chưa có khi nào vui như vậy tôi vui mừng trong khoảnh khắc, tin tưởng mình đã hoàn toàn đã được tha thứ và nhận được sự giải phóng khỏi tội lổi, thấy mình hoàn toàn tự do và trở nên mới hoàn toàn.

Đến một ngày Chúa nói với tôi “con hãy đi học trường kinh thánh”. Tôi bàn với vợ, và vợ tôi đồng ý, để tôi đến trường trong lúc gia đình còn nhiều khó khăn. Nhưng Chúa đã giúp đỡ chúng tôi thật nhiều. Một năm kết thúc tốt đẹp (1996-1997). Rồi năm 1998 niềm vui lại đến với gia đình tôi. Chúa ban cho chúng tôi hai đứa con, thật thuyệt vời – một trai, một gái. Tôi biết điều này chỉ có từ Chúa mà thôi.Vợ chồng chúng tôi đặt tên cho các cháu như trong kinh thánh. Tên cháu trai là:

– Đavít (đó là sự yêu thương)

– Hồng Hạnh (nghĩa là sự tỉnh thức)

để nhắc chúng tôi yêu thương nhau và tỉnh thức trong mọi hoàn cảnh khi còn ở trên đất này cho đến ngày về với Ngài. Chúng tôi rất hạnh phúc, cuộc sống có những thăng trầm. Nhưng tôi muốn nói rằng: Nhờ sức toàn năng mà Chúa ban cho chúng tôi, gia đình chúng tôi luôn vững tin vâng theo lời Ngài hứa “Chúa sẻ chẳng lìa bỏ ai có tấm lòng tìm kiếm, trông cậy hoàn toàn vào Ngài”. Lời Chúa như vậy làm sao mà tôi không tin cho được.

Hằng ngày chúng tôi vẩn luôn cầu nguyện cho anh chị em dân tộc Việt Nam, xin Chúa thương xót dân tộc mình. Dân tộc Việt Nam sẽ có Chúa làm chủ – Xin Chúa đổ phước xuống trên dân tôc Việt Nam.

Hiện tại tôi đang làm việc tại một cơ quan ở Mát-xcơ-va. Tôi vẫn luôn cầu nguyện cho tất cả các nhà lãnh đạo, các công ty, các nhà, từng người một: Xin Chúa cho họ có cơ hội để đến với Ngài, và cùng đứng về phía ĐỨC CHÚA TRỜI. Cầu nguyện cho Việt Nam.

Tôi mong muốn được chia sẻ với bất cứ ai có tấm lòng tìm kiếm Chúa, cũng như chia xẻ vui buồn trong đời sống hằng ngày, sẵn lòng giúp đỡ ai muốn tìm hiểu Kinh thánh và Chúa JESUS CHRIST. Với khả năng tôi có được, mong muốn được kết tình anh em trong Chúa JESUS, với những ai có tấm lòng sẵn sàng hầu việc Chúa tại Mátxcơva và quê hương sau này.

Hiện tôi sống tại đường Visnhevskogo, đôm 4, kva 26.

Lời kêu gọi :

Thưa bạn đọc quí mến!

Nếu bạn đọc lời làm chứng này mà mong muốn cuộc sống mình được thay đổi, muốn nhận phước ơn từ Chúa. Bạn muốn có Chúa JESUS, chỉ cần nhắc lại lời tôi bạn sẽ được cứu “Kính lạy Chúa JESUS, con biết con là người có tội. Ngày trước đáng bị hình phạt trong hoả ngục. Nhưng con cảm ơn ngài, vì ngài đã chết thay cho con. Con xin Ngài tha mọi tội lổi cho con, và tiếp nhận con làm con cái của Ngài. Xin huyết Chúa tẩy sạch con. Con cảm ơn Ngài và cầu nguyện nhân danh Chúa Jê-sus Christ. A-MEN”.

 

*** Sau khi đọc bài này, nếu bạn thấy lòng mình cảm động và được thúc giục tin nhận Chúa Cứu Thế Giê-su, thì xin bạn thành tâm cúi đầu cầu nguyện với Chúa như sau:

” Kính lạy Đấng Tạo Hóa, con biết con là người có tội. Con đã xa cách Chúa, sống theo đường lối và ý riêng mình. Hiện con đang đi trên đường dẫn đến sự hình phạt đời đời. Tạ ơn Chúa, vì Ngài đã đến trong thế gian, chịu chết thay cho con để đền tội con trên thập tự giá. Giờ đây, con quyết tin nhận Chúa làm Cứu Chúa của con, xin Chúa tha tội cho con và tiếp nhận con làm con cái yêu dấu của Ngài. Con cầu nguyện nhân danh Chúa Cứu Giê-su, Amen.”

________________________________________________________________________

www.vietchristian.com/niengiam/