Đã quá mười giờ vào một đêm tối mịt. Người đi với anh ta là một người đàn ông ăn mặc rách rưới, hoàn toàn xa lạ đối với Hudson Taylor, một thanh niên mới mười chín tuổi. Taylor đang mân mê đồng bạc để biết chắc đồng ấy vẫn còn trong túi. Anh nhìn quanh có vẻ lo ngại. Tuy rằng trước đây anh đã từng đi qua những khu phố nghèo nàn, chật hẹp nầy.
Chương 1
Dù ban ngày đi nữa thì khu phố nầy cũng chẳng phải là nơi đáng đặt chân tới. Mà bây giờ dưới ánh đèn đường mập mờ nơi những góc phố thuộc các ngõ hẽm tối tăm, nhìn các gương mặt ngờ vực thập thò qua khe cửa, khu phố lại càng tỏ ra thiếu an ninh tợn. Hẳn nhiên vùng nầy không phải là nơi mà người bình thường muốn nói chuyện với một người ăn mặc lôi thôi vào lúc chiều tối. Nhưng nếu anh muốn đi Trung hoa thì anh phải làm quen với những khu phố như thế nầy. Vì thế Hudson Taylor cứ tiến bước.
“Sao anh không mời một linh mục đến thăm và cầu nguyện cho vợ anh?” Hudson hỏi người đàn ông đang đi với mình. Anh cảm thấy vui khi nghe chính giọng nói của mình! Người đàn ông đến gặp thanh niên Taylor kể rằng vợ anh ta đang hấp hối. Anh bảo, “Xin ông đến cầu nguyện cho linh hồn của vợ tôi.” Hudson Taylor bằng lòng đi. Người đàn ông rõ ràng là một người theo Công giáo. Tuy nhiên, bây giờ Hudson bắt đầu cảm thấy lo âu. Nếu quả thật vợ anh ta sắp chết tại sao anh ta không xin một linh mục phụ trách khu vực người Ái-nhĩ-lan thuộc quận Hull để làm lễ? Sao lại đi tìm một người Tin Lành?
Ông ta giải thích. Ông đã đến gặp linh mục. Tuy nhiên vị linh mục đòi phải trả tiền mới chịu làm lễ. Anh ta và gia đình hiện chẳng còn đồng nào, cho nên trả tiền để được làm lễ là chuyện không thể làm được.
Chết đói đến nơi! Hudson lại mân mê đồng tiền trong túi. Anh chỉ còn có mỗi một đồng tiền đó thôi ngoài hai chén cháo nơi nhà trọ thì anh chẳng còn thức ăn hay tiền bạc gì nữa cả. Anh khó có thể cho đi đồng tiền còn lại. Anh cảm thấy bực mình vì người đàn ông và trách anh ta tại sao để đến nước đường cùng như thế. Sao anh ta không tìm cách nhờ giúp đỡ sớm hơn? Vợ hấp hối, gia đình sắp chết đói mà chẳng làm gì cả là điều vô cùng khó hiểu.
Người đàn ông thiểu não đáp, “Tôi có đi nhờ người giúp đỡ. Họ bảo mai trở lại lúc mười một giờ. Nhưng tôi sợ rằng đợi đến lúc đó thì vợ tôi đã chết rồi…”
Lòng Hudson cảm động. Tình trạng của anh tuy bấp bênh thật nhưng vẫn còn khá hơn tình trạng của người đàn ông kia nhiều. Anh thầm nghĩ, ước gì mình có hai đồng tiền thì chắc chắn anh sẽ không ngần ngại cho người đàn ông kia một đồng!
Bỗng nhiên người đàn ông quay khỏi con đường và bước vào một sân tối om. Trước đây Hudson đã có đến đây; anh ta nhớ rõ lần cuối khi anh có mặt chỗ nầy. Anh bị những cư dân khu lụp sụp ở đây nổi giận đánh đuổi. Họ xé nát các truyền đạo đơn mà anh ta phát cho họ. Nếu mà anh ta còn chường mặt đến đây một lần nữa thì liệu hồn! Họ hoan nghênh vị linh mục có mang thánh giá và cầu nguyện với bà Ma-ri nhưng không có chút nào thiện cảm với một ông truyền đạo Tin Lành trẻ tuổi người Anh. Hudson vội ra khỏi khu vực ấy trong thái độ tự trọng còn sót và không khi nào nghĩ rằng mình được mời trở lại khu vực đó một lần nữa. Trong khi anh ta bước lên thang gác ọp ẹp của nhà trọ thì thâm tâm anh mong rằng sẽ không ai biết anh đang có mặt tại đó! Anh cảm thấy yên lòng khi cả hai bước lên đầu thang gác và nghe người đàn ông mở cửa. Họ đã đến nơi.
Một cảnh tượng khá bi đát đập vào mắt Hudson! Dưới ánh đèn cầy lù mù rẻ tiền anh nhìn thấy sàn gỗ trơ ra, cửa sổ không có màn che, và một căn phòng gần như chẳng có bàn ghế gì. Trên sàn nhà nơi góc phòng, trên một chiếc nệm rơm là một người đàn bà gầy còm nằm, mệt mỏi, bên cạnh là một hài nhi mới sinh khoảng hai ngày. Còn bốn hay năm trẻ nhỏ khác, đứa thì đứng, đứa thì nằm trên sàn, mặc quần áo xốc xếch, chân chẳng có giày vớ gì cả. Chúng nhìn về phía cha chúng và người đàn ông lạ mặt mà cha chúng mới đưa về với những cặp mắt tròn xoe, lờ đờ, và đói khát.
Hudson đứng lặng yên trong phòng, biết chắc mình vẫn còn một đồng. Anh thầm nghĩ ước gì mình có hai đồng riêng rẽ thì tốt biết bao nhiêu. Chắc chắn anh sẽ chìa ra một đồng cho mấy người nghèo khó nầy. Thôi ao ước làm gì nữa. Anh bình tĩnh nhớ rằng mình là một người truyền đạo và dự định làm giáo sĩ cho nên anh quyết định phải làm chứng cho những người nầy về Chúa.
Anh ta ngập ngừng mở lời, “Các bạn biết tình trạng của các bạn thật bi đát. Nhưng các bạn không nên thất vọng. Chúng ta có một Cha trên Thiên đàng yêu thương và chăm sóc cho chúng ta nếu chúng ta tin cậy Ngài—”
Nói đến đây anh cảm thấy nghẹn lời. Trong lòng anh như có tiếng thốt lên, “Đừng có đạo đức giả! Trong khi anh nói với người ta về một Cha nhân từ và yêu thương trên Thiên đàng—mà chính mình anh lại không sẵn sàng tin cậy nơi Ngài mà không dựa vào đồng tiền anh có!”
Hudson liền bỏ ý định giảng cho họ. Cả gia đình yên lặng nhìn anh trong khi anh đang đứng đó, ăn mặc tươm tất với áo ngoài có đuôi dài, mang giày da thứ thiệt và đội nón lòng cao! Anh tự nghĩ giá như áo quần anh xơ xác, và giày cần phải vá thì thế nào? So với họ anh ta trông sang trọng hơn nhiều. Họ đâu có biết anh chỉ còn có một đồng tiền? Hudson cảm thấy thật đau lòng. Ôi, ước gì anh có tiền thêm, anh sẽ cho họ, chắc chắn như thế.
Anh quay sang người đàn ông và nói: “Anh mời tôi đến đây để cầu nguyện cho vợ anh. Thôi bây giờ chúng ta hãy cầu nguyện.” Đang khi quì gối xuống sàng gỗ trơ trọi thì anh tưởng cầu nguyện là việc dễ dàng. Nhưng không phải vậy. Anh vừa bắt đầu “Lạy Cha chúng con ở trên trời,” thì tiếng nói lên án trong lòng anh lúc nãy lại thốt lên, “…còn đồng bạc trong túi anh thì sao?” Anh gượng gạo cầu nguyện cho xong mà trong lòng cảm thấy khốn khổ, rồi đứng dậy.
Khi anh đứng lên thì người đàn ông nói với anh giọng tuyệt vọng, “Ông thấy hoàn cảnh chúng tôi thật bi đát. Xin ông giúp chúng tôi!”
Tội nghiệp cho Hudson! Anh không biết làm gì khác hơn. Bỗng nhiên anh nhớ thường đọc trong Bài Giảng Trên Núi có câu như sau: “Người nào xin thì hãy cho họ…” Hãy cho…
Anh từ từ cho tay vào túi. Phải cho đi đồng tiền nầy.
Khi trao đồng tiền cho người đàn ông, Hudson bảo, “Có lẽ anh nghĩ rằng tôi giàu có lắm nhưng thật ra đây là đồng bạc cuối cùng của tôi.” Bỗng nhiên anh cảm thấy phấn khởi. “Tôi bảo thật đấy. Chúa là Cha của chúng ta. Chúng ta có thể tin cậy nơi Ngài. Tôi có thể tin cậy nơi Ngài…” Và anh nhận ra rằng anh có thể tin cậy Ngài. Giờ đây thì anh cảm thấy vững lòng nói cho người khác biết về việc tin cậy nơi Chúa vì đồng bạc đã ra khỏi túi anh và đang ở trong túi người đàn ông kia! Anh lấy làm ngạc nhiên về sự thay đổi đột ngột trong cảm nghĩ của anh vì đồng bạc ấy. Anh cảm thấy phấn khởi. Anh và gia đình người đàn ông chia tay nhau trong tình thân thiện. Anh bước xuống thang gác ọp ẹp, băng qua sân trước và bước về nhà mà lòng phơi phới, đuôi áo bay phần phật trong gió, miệng ca hát, không mảy may lo âu gì! Khi anh về đến căn phòng nhỏ ở Drainside nơi anh trọ, và chuẩn bị ăn bát cháo duy nhất cuối cùng thì anh cảm thấy khoan khoái như ông hoàng.
Đang khi ngồi đó thì trong óc anh thoáng ra một ý nghĩ hay hay. Anh nhớ có đọc một chỗ nào đó trong Thánh Kinh nói rằng, “ai giúp người nghèo tức là cho Đức Giê-hô-va vay mượn.” Câu ấy cho thấy món tiền anh cho ra giờ đây mang một khía cạnh khác vì anh đã cho người nghèo thì xem như anh đã cho Chúa vay. Ý nghĩ cho Chúa vay tiền thật ra hơi kỳ lạ đối với anh nhưng vì đó là lời Kinh Thánh viết nên anh nghĩ phải đúng. Do đó khi anh quì gối cầu nguyện trước khi đi ngủ, anh thưa với Chúa về món tiền vay, xin Ngài đền bù sớm, nếu không thì hôm sau anh ta sẽ chẳng còn gì mà ăn!
Sáng hôm sau anh dậy như thường và nhìn vào chén cháo cuối cùng của mình. Trước mặt anh là một ngày vất vả đang chờ, và tuy rằng một chén cháo cũng đủ để bắt đầu nhưng nếu kéo dài thêm nữa thì chẳng thấm vào đâu. Bao giờ thì Chúa sẽ trả lại số tiền vay đó?
Anh ngồi xuống và bắt đầu ăn. Tiếng lạch cạch của người phát thơ nơi cửa trước không làm anh lưu ý mấy vì ít khi nào anh nhận được thơ vào sáng thứ hai. Mấy giây sau thì bà chủ nhà trọ gõ cửa phòng anh.
Bà hớn hở bảo, “Gói nhỏ nầy là của ông đó, ông Taylor ạ.” Bà vừa nói vừa dùng vạt áo nhà bếp trao gói quà cho anh vì tay bà đang ướt.
Hơi ngạc nhiên, Hudson đáp, “Ô, cám ơn bà!” Anh giơ tay đỡ lấy gói đồ và xem xét. Món quà đúng là gởi cho anh nhưng anh không nhận ra chữ viết là của ai. Dấu bưu điện đã bị nhoà cho nên anh cũng không biết gì thêm. Anh quyết định mở nó ra. Sau khi rọc phong bì thì anh rút ra một mảnh giấy. Bên trong là một đôi găng tay trẻ con.
Hơi băn khoăn, Hudson tự hỏi, “Ai gởi cho mình đôi găng tay trẻ con thế nầy?” Rồi có vật gì rơi ra. Vật ấy nhỏ thôi và sáng loáng. Anh cúi xuống nhặt lên—một đồng tiền vàng.
Anh sững sờ nhìn đồng tiền rồi xem xét miếng giấy bọc xem thử có thư không, anh nhìn kỹ chữ viết tay và dấu bưu điện để tìm ra tung tích người gởi. Vô ích. Anh không biết được gói quà ấy từ đâu đến. Mà lúc đó thì anh chẳng cần biết làm gì nữa. Anh chỉ biết là nó đến từ thiên đàng! Anh nhận ra rằng không những đồng bạc của anh đã được đền đáp đầy đủ mà anh lại nhận được gấp mười lần hơn! Bỗng nhiên anh phá lên cười lớn.
Anh hớn hở kêu lên, “Thật là một số tiền lời lớn! Ha, ha! Chỉ đầu tư vào ngân hàng của Chúa có mười hai tiếng đồng hồ mà mình được lời như thế nầy! Đúng là nhà băng của tôi!”
Chương 2
KHU VỰC DRAINSIDE
Drainside, thuộc vùng Hull, nơi Hudson đến cư ngụ mang tên ấy là vì nó nằm cạnh một con kênh. Nhưng đối với những cư dân sống trong các dãy nhà nhỏ xíu xây hai bên bờ kênh hẹp thì con kênh chỉ là đường cống. Rất tiện cho những người sống trong các căn nhà ấy. Mở cửa ra là họ có thể ném rác rưởi xuống kênh mà không phải bận tâm gì. Giấy dơ, lá bắp cải, vỏ khoai tây, và rau cải thối nổi lềnh bềnh trên mặt nước, làm mục tiêu hấp dẫn cho lũ trẻ lang bạt nô đùa. Và khi bóng tối chụp xuống nếu đường cống ấy xông lên mùi xú uế hay gây rủi ro cho những người say rượu bước ra từ những khu chung cư đối diện nơi Hudson ở thì vai trò của nó trong việc làm thùng rác cũng đủ ích lợi rồi so với rủi ro ấy.
Đối với Hudson thì sự khác biệt giữa khu vực nghèo nàn, xấu xí ở đây và cảnh giàu sang ở vùng Yorkshire, nơi anh xuất thân quả thật quá to lớn. Ngoài ra sự khác biệt giữa căn phòng lùi xùi chật hẹp mà anh đang sống so với căn nhà ấm cúng đủ tiện nghi bên trên tiệm thuốc tây của cha anh ở khu phố Market, thành phố Barnsley cũng rõ ràng không kém! So căn phòng nhỏ hẹp anh hiện ở chỉ có vỏn vẹn một cái giường nằm trong góc, một cái bàn và mấy chiếc ghế với căn phố ấm cúng đàng sau cửa hiệu thuốc tây có chén bát màu tươi mát, cửa kính lóng lánh, tủ sách to với ghế bành và các chiếc ghế êm ái thì căn nhà của anh trước kia chẳng khác nào dinh thự. Anh cũng cảm thấy đơn độc khi một mình ăn những bữa đạm bạc, thay vì ngồi chung nơi một bàn ăn rộng rãi với cha mẹ và hai cô em gái hay cười nói huyên thuyên. Anh thích trêu chọc hai cô em có những lọn tóc xoăn tít và áo quần lượt là. Anh rất nhớ các em gái mình—nhất là cô Amelia. Nhưng sở dĩ anh đến đây là vì anh muốn quen dần với cảnh cô độc và vất vả. Và anh nhất định ở đây vì nơi nầy là một phần trong việc chuẩn bị cho anh sinh sống ở Trung Hoa trong tương lai.
Kể từ buổi tối tháng chạp hơn một năm trước đó khi anh nghe tiếng nói bên tai rằng, “Hãy đi sang Trung Hoa cho Ta,” thì anh biết rằng anh phải ra đi. Lúc nghe tiếng nói ấy thì anh đang cầu nguyện và mặc dù Trung Hoa không bao giờ nẩy ra trong ý tưởng của anh nhưng mệnh lệnh ấy quá rõ ràng, không lầm lẫn được cho nên anh biết chắc tiếng nói ấy đến từ Chúa. Vì nhất quyết vâng tiếng phán của Ngài mà anh đã rời căn nhà ấm cúng ở Barnsley để đến làm việc cho một bác sĩ ở tỉnh Hull. Có chút kiến thức và kinh nghiệm về y khoa chắc hẳn sẽ ích lợi ở một xứ lạ cho nên việc đến sống ở tỉnh Hull chỉ là bước đầu trong cuộc hành trình đến Vương quốc Đông Phương ấy.
Không những anh rất muốn có kiến thức về y khoa khi đi làm giáo sĩ ở Trung Hoa, tuy nhiên ước muốn ấy không đáng kể mấy so với một vấn đề khác quan trọng hơn mà anh đang đối đầu. Anh chẳng quen ai ở Trung Hoa mà anh lại sang bên đó có một mình. Liệu đức tin trong Chúa của anh có đủ mạnh để anh đi đến một xứ lạ, phải đương đầu với những khó khăn hay nguy hiểm mà từ trước đến nay anh chưa hề gặp không?
(More)
GS Pham Quang Tam
Mọi bài vở cộng tác và góp ý xin gửi về info@nguonhyvong.com
www.nguonhyvong.com