BÀI HỌC 9: Đời Sống Thuộc linh và các Sinh Hoạt của Hội Thánh

Một số các nhà viết sử Hội Thánh gọi giai đoạn từ năm 590 đến năm 1054 là Những Thời Kỳ Ám Thế. Có một sự suy thoái nghiêm trọng trong nhiều lãnh vực của đời sống Hội Thánh. Trong việc liên kết giữa giáo hội với nhà nước, mà chúng ta đã nghiên cứu trong bài vừa qua, Hội Thánh đã tự làm hại chính mình trong những rắc rối chính trị. Tình trạng vô đạo đức đã bắt rễ khi giới lãnh đạo Hội Thánh ngày càng trở nên vật chất hóa và giảm sút về mặt thuộc linh. Vào cùng thời điểm đó, một tôn giáo mới được gọi là Hồi giáo nổi lên và đã chinh phục những vùng đất rộng lớn đã từng là một phần thuộc thế giới Cơ đốc.
Lịch sử của Cơ đốc giáo bày tỏ không biết bao nhiêu lần khả năng đáng ngạc nhiên của Hội Thánh trong việc cải cách và tự làm tươi mới chính mình, để phản ứng trước những sự áp lực và những sự đe dọa, và để truyền giáo. Bất chấp việc mất mát lãnh thổ cho hồi giáo cũng như việc bị tổn thất ngày càng tăng về mặt thuộc linh, nhất là về quyền của Giáo hoàng, Hội Thánh đã gieo ra những hạt giống phục hồi và cứ tiếp tục lan rộng. Nhờ những cố gắng của những nhà truyền giáo tận tụy, giáo hội Lamã đã truyền giáo cho Anh, Đức và Scandinavia. Giáo hội Hylạp thì nhắm vào các nước thuộc Tây âu và nước Nga.
Sự ganh đua trong công tác truyền giáo giữa các Hội Thánh phía Tây và phía Đông chỉ là một dấu hiệu của sự ly giáo không thể tránh được đã phân chia họ luôn. Vào năm 1054 giáo hội mà trước kia đã xưng là một cộng đồng chung bấy giờ đã chính thức thành ra hai giáo hội giáo hội Công giáo Lamã và giáo hội chính thống Hylạp.
Trong bài học nầy, khi nghiên cứu về đời sống thuộc linh và những sinh hoạt của Hội Thánh thời trung cổ, bạn nên xem xét cách kỹ lưỡng chính Hội Thánh của bạn. Hãy tìm kiếm những sự chỉ dẫn dành cho đời sống thuộc linh của mối thông công của bạn. Hãy lưu ý bất cứ lãnh vực nào cần được cải thiện.
Tình trạng thuộc linh của Hội Thánh
Sự sa sút của thể chế Giáo hoàng
Những hạt giống của sự phục hồi
Sự bành trướng Cơ đốc giáo
Sự nổi dậy của Hồi giáo
Giáo hội Tây phương trong các Hội truyền giáo
Sự ly giáo trong Hội Thánh
Nguồn gốc của Giáo hội chính thống Hylạp
Giáo hội phía Đông trong các Hội truyền giáo

Khi học xong bài nầy bạn có thể:
1) Mô tả nhu cầu cải cách về mặt thuộc linh trong Hội Thánh
2) Phát hiện sự bành trướng về mặt của Cơ đốc giáo về phía Bắc bất chấp sự đe dọa của Hồi giáo.
3)Giải thích những lý do của sự chia cắt giữa các Hội Thánh ở phía Tây với phía Đông.

  1. Nghiên cứu bài học nầy và làm bài tự trắc nghiệm theo những chỉ dẫn ở bài 1.
    2. Nghiên cứu các bản đồ trong bài học nầy.
    3. Ôn lại từ bài 6 đến bài 9 để chuẩn bị cho phần Đán Giá Tiến Bộ Đơn Vị 3.

Rút phép thông công.
Chế độ Giám mục quản lý.
Tranh tượng Thánh.
Chủ trương đã phá các hình tượng.
người Mông cổ.
Tây vị phẩm trật
Thổ ngữ
Tột đỉnh
TÌNH TRẠNG THUỘC LINH CỦA HỘI THÁNH
Sự sa sút của thể chế Giáo hoàng
Với sự nổi dậy của chế độ bành trướng đế quốc, thể chế Giáo hoàng tự thấy mình ở trong vị trí bình địch với các vua và các Giáo hoàng về thẩm quyền trong thế giới Cơ đốc. Giáo hoàng Nicholas đệ I (858-867) hơn bất cứ vị giáo hoàng nào ở vào giai đoạn từ Gregory đệ I đến Gregory đệ VII (1073-1085) đã tìm cách nâng cao quyền lực của Giáo hoàng trên quyền kiểm soát dân sự. Ông đã sử dụng các chiếu chỉ giả hiệu của Isidorius để bênh vực cho lời xưng nhận của Giáo hoàng về quyền tối cao trên cả giáo hội lẫn thẩm quyền của thế tục. Tuy nhiên từ cuối thế kỷ thứ chín cho đến giữa thế kỷ thứ mười một, chế độ Giáo hoàng đã trải qua mức sa sút thấp nhất trong cuộc chiến về quyền lực.
Hết thảy thế giới Cơ đốc ở phía Tây bị suy yếu. Quốc gia của dòng họ Carolingian đang bị phân hủy dưới thời những người kế vị nhu nhược sau Charlesmagne. Dân Viking từ Bắc âu và dân Magyar từ Đông âu đang xâm lăng đế quốc. người Hồi giáo tiếp tục tấn công ở phía Nam. Vào thế kỷ thứ mười, trật tự dân sự và nền văn hóa bị sụp đổ ở tại Châu âu. Thể chế Giáo hoàng không còn sự bảo vệ.
Việc bổ nhiệm các Giáo Hoàng giữa giai đoạn 955-1047 rơi vào tay của giới quý tộc Ý. Họ biến chế độ Giáo hoàng thành một giải thưởng phải giành mới được. Tự nhiên là có sự bại hoại ngày càng gia tăng về mặt đạo đức và thuộc linh giữa vòng các Giáo hoàng. Giới quý tộc cũng kiểm soát trên các giáo khu và các tu viện khắp trong thời kỳ nầy, chế độ phong kiến đã ảnh hưởng bất lợi đến giáo hội. Các tín đồ đã cung cấp đất đai và các công trình xây dựng cho các Hội Thánh và lựa chọn hàng giáo phẩm cho chính họ. Tệ buôn bán các phẩm trật trong giáo hội ( gọi là Simony) lan tràn. Hàng giáo phẩm trở nên ngày càng ngu dốt và vô đạo đức.
Chính trong giai đoạn thống trị của vị Giáo hoàng vô luân John đệ XII (955-964) mà vua người Đức Otto đệ I, đã nổi lên nắm quyền. Sau khi được Giáo hoàng John phong vương hoàng đế của đế quốc Lamã Thánh. Otto đã truất ông ta và chỉ định một tín đồ vào vị trí của ông ta. Các vị hoàng đế kế nhiệm tiếp tục can thiệp vào những công việc của Giáo hoàng trong khi uy quyền bành trướng đã lên đến tột đỉnh của nó dưới thời các hoàng đế Herry đệ II (1002-1024) và Herry đệ III (1039-1056) trong thời từ Giáo hoàng Nicholas đệ I đến Giáo hoàng Leo đệ IX (1049-1054) có hơn 40 Giáo hoàng. Ngay trước việc bổ nhiệm Leo, có ba người đã xưng là Giáo hoàng.
1. Từ cuối thế kỷ thứ chín cho đến giữa thế kỷ thứ mười một thế giới Cơ đốc.
a. Đang phân hóa về mặt chính trị
b. Bị dân Viking và dân Magyar xâm lăng
c. Bị những vị Giáo hoàng nhu nhược vô đạo đức lãnh đạo
d. Tất cả những điều kể trên
2. Mô tả sự ngang nhau về quyền lực trong cuộc đấu tranh của các Giáo hoàng chống lại các vua và các hoàng đế.
……………………………………………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………………………………………..
Những hạt giống của sự phục hồi
Trong suốt giai đoạn của các Giáo hoàng vô đạo đức cũng như ngay trước thời kỳ nầy, những mầm móng của sự cải cách đã được gieo ra trong Hội Thánh từ thời Otto đệ I cho đến Herry đệ III đạt đến tột đỉnh về quyền lực, thì Hội Thánh bắt đầu tìm những cách để làm suy yếu sự kiềm kẹp của họ đối với những vấn đề thuộc linh.
Đời sống tu viện bị hư hoại một cách tồi tệ. Các tu sĩ đã thay thế quan niệm phục vụ bằng một quan niệm của một đời sống dễ giải trong một tu viện giàu có. Khi những nhu cầu “trọng lâm” bị xao lãng, thì sự cải cách về mặt thuộc linh là điều cần thiết. Một phong trào cải cách đã bắt đầu vào năm 910 trong một tu viện được thành lập ở tại Chuny, Pháp. Điều khơi mào phong trào là do có sự đổi mới trong việc cho phép các tu sĩ được chọn lựa vị trưởng tu viện của họ mà không có sự can thiệp từ bên ngoài. Vị trưởng tu viện được tự do khỏi mọi kiểm soát của chế độ Giám mục quản lý cũng như quyền lực thế tục. Ông ta chịu trách nhiệm trực tiếp đối với Giáo Hoàng,chứ không phải với các Giám mục địa phương. Hãy nhớ rằng các Giám mục địa phương thường do những nhà cầm quyền dân sự bổ nhiệm và kiểm soát.
Sự cải cách chung đã lan khắp nước Pháp đến Anh quốc và cuối cùng đến nước Ý vào thế kỷ thứ mười một. Tột đỉnh của nó là đã có 1000 trung tâm chung ở tại Âu châu. Một trong những điều nhấn mạnh chính yếu của nó là sự khôi phục nguyên tắc Benedictine, với việc gia tăng tập trung vào sự thờ phượng và giảm xuống yêu cầu về lao động thân thể.
Sự cải cách Clunic đã ảnh hưởng không những đến đời sống tu viện mà cả đời sống thế tục và đời sống của hàng giáo phẩm. Nâng cao những tiêu chuẩn về đạo đức và đời sống độc thân của hàng giáo phẩm. Lên án nạn lạm dụng buôn bán phẩm trật trong giáo hội và được bổ nhiệm những người bà con vào các chức vụ trong Hội Thánh (nạn tây vị phẩm trật). Phong trào đã dẫn đến việc giải phóng Hội Thánh phần nào khỏi sự kiểm soát của thế gian, trần tục. Vào khoảng giữa thế kỷ thứ mười một, thể chế Giáo hoàng ra chiếu chỉ rằng các Giáo hoàng tương lai phải do những thành viên của Hồng y đoàn tuyển chọn. Các Giáo hoàng sẽ không còn là những kẻ bị giật dây về mặt chính trị nữa. Hoặc ít ra như điều Hội Thánh đã suy nghĩ.
Mỉa mai thay, Hoàng đế Herry đệ III đã giúp cho chế độ Giáo hoàng lên đến chỗ tự do. Ông ta tập trung vào việc cải cách giáo hội dưới quyền lãnh đạo của mình. Tuy nhiên, các nhà cải cách của giáo hội có thể biến những nỗ lực của ông ta thành ra những mục tiêu của họ.
Để đối phó trước cuộc chiến dưới chế độ phong kiến trong thế kỷ thứ mười một, giáo hội đã ban bố một cấm lệnh mang tên “sự hòa bình của Chúa” nhằm tránh những cuộc tranh chấp riêng tư những cuộc tấn công vào những con người không có vũ trang, việc trộm cắp và cướp phá những nơi thánh. Giáo hội cũng ban bố lệnh “Sự Ngưng Chiến Của Chúa” để cấm việc giao chiến kể từ chiều tối thứ tư cho đến sáng thứ hai và vào những ngày lễ. Hội thánh đang tìm cách lập lại trật tự sau những hỗn loạn và giảm bớt những sự tàn bạo của thời kỳ đó.
Cả tín hữu lẫn hàng giáo phẩm đều nhìn nhận nhu cầu cần phải cải cách trong giáo hội. Cuộc tranh chiến quan trọng là phải xác định ai sẽ kiểm soát giáo hội trong cuộc cải cách đó. Chúng ta sẽ thấy kết quả của cuộc chiến đấu nầy trong bài tiếp theo. Trong lúc đó chúng ta sẽ bàn luận sự bành trướng của Cơ đốc giáo qua các hội truyền giáo ở phái Tây và sau đó tập trung vào giáo hội phía Đông và những sự kiện dẫn đến sự tuyệt giáo cuối ngày giữa hệ thống Công giáo Lamã với giáo hội chánh thống Hylạp.
3. Phong trào cải cách chung đã bắt đầu ở
a. Nước Pháp
b. Nước Anh
c. Nước Ý
d. Nước Đức
4. Một chiến thắng quan trọng của phong trào Clunic là
a. Sự ràng buộc chặt chẽ hơn với các giáo khu ở địa phương
b. Gia tăng sự chú trọng vào lao động thân thể.
c. Sự tự do khỏi quyền soát của thế tục
d. Tất cả những điều kể trên
5. Sự cải cách chung đã có ảnh hưởng gì trên đời sống của hàng giáo phẩm?
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
6. Sự phục hưng dường như là sản phẩm phụ của cuộc tranh chiến lớn giữa những giáo hội và hàng giáo phẩm nhằm kiểm soát giáo hội. Hãy giải thích vắn tắt điều có nghĩa là gì.
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
SỰ BÀNH TRƯỚNG CỦA CƠ ĐỐC GIÁO
Sự nổi lên của Hồi giáo
Sự ra đời của tôn giáo quan trọng thứ ba theo thuyết độc thân. Hồi giáo, đã có ảnh hưởng lớn đến giáo hội Cơ đốc. Chịu ảnh hưởng bởi Do thái giáo, Cơ đốc giáo và Bái hỏa giáo. Hồi giáo đã trở thành kẻ thù lớn nhất của Cơ đốc giáo thời trung cổ. Đông đế quốc và giáo hội đã chiến đấu chống lại nó cho đến khi quân Hồi giáo Thổ nhĩ kỳ cuối cùng đã chinh phục Đông đế quốc vào năm 1453, đặt Đông giáo hội dưới quyền kiểm soát chính trị Hồi giáo. Sau thời trung cổ, nền văn minh Hồi giáo đã trở thành một cộng đồng xã hội phổ biến nhất trên đất.
Mohammed người Mecca ở tại Arabia (570-632) là một người điều khiển lạc đà, đã lấy người đàn góa giàu có, là nhà sáng lập của đạo Hồi. Ông dành nhiều thì giờ để suy gẫm. Vào năm 610 ông cảm nhận sự kêu gọi thiêng liêng để công bố thuyết một thần. Sự giảng dạy của ông chống lại việc thờ hình tượng khiến phải gánh chịu cơn thạnh nộ. Tuy nhiên bởi điều đó ông phải trốn đến Medina vào năm 622 khoảng năm 680 ông có đông đảo người theo mình đến nỗi ông đã chiếm được Mecca. Trong vòng hai năm, hết thảy người Ả rập đều theo Hồi giáo. Trong vòng một trăm năm sau khi Mohammed qua đời, Hồi giáo đã quét sạch giáo hội Cơ đốc ở tại Bắc Phi và làm suy yếu Hội Thánh ở các vùng khác thuộc Phi châu khi người Ả rập chinh phục các vùng đất khác, Hồi giáo đã lan rộng thành hình lưỡi liềm khắp Sy-ri và xứ Palestine cũng như hết thảy vùng Ba tư cho đến biên giới của Đông đế quốc ở phía Đông và khắp vùng đất thuộc Địa trung hải và Tây ban nha ở phía Tây. Lưu ý sự bành trướng của đạo Hồi trên bản đồ “giáo hội bị phân chia” ở cuối bài học.
Bất cứ nơi nào người Hồi giáo đến, họ đều đưa ra cho người dân bị chinh phục một quyết định hoặc chịu chết để bày tỏ lòng tôn kính, hoặc phải cải đạo theo Hồi giáo. Như bạn đã biết, Charles Martel đã đánh bại những người Hồi giáo ở tại Tours vào năm 732, đuổi họ trở về không chinh phục được Tây đế quốc.
Người theo Hồi giáo có một quyển kinh gọi là Kinh Koran. Quyển kinh này xác lập việc thờ phượng một thần gọi là Allah và tôn kính Mohammed như là vị Tiên tri sau cùng và vĩ đại nhất trong số những Tiên tri như Ápraham, Môi se và Đấng Christ. Những môn đệ của Hồi giáo mỗi ngày đều phải học thuộc lòng bảng tín điều (không có chúa nào khác ngoài Allah và mohammed là vị tiên tri của người) và phải cầu nguyện năm lần. Họ phải giữ những kỳ kiêng ăn, dâng hiến cho công việc từ thiện và tiến hành các cuộc hành hương đến thành Mecca nếu có thể được.
Mặc dầu đôi khi những Cơ đốc nhân cũng được phép ở lại tại những xứ sở của người Hồi giáo, họ đã bị hạn chế trong việc truyền giáo và bị đẩy xuống tầng lớp nhân dân thấp kém hơn. Song, chúng ta sẽ thấy rằng, Hội Thánh dầu bị những mất mát lớn ở phía Đông, ở vùng Địa trung hải và Bắc phi, vẫn có được những bước tiến lớn trong việc truyền giáo cho các vùng đất mới ở tại Châu âu.
7. Do thái giáo, Cơ đốc giáo và Hồi giáo đều là
a. Những tôn giáo phổ biến ngang nhau
b. Những tôn giáo theo thuyết duy nhất thần
c. Nghe có vẻ đúng theo Kinh thánh
d. Tất cả những điều kể trên.
8. Đối chiếu nền tảng cứu rỗi trong Cơ đốc giáo và Hồi giáo
Theo bạn nghĩ
9. Những yếu nhược gì của Cơ đốc giáo trong vùng Trung đông và Bắc phi đã góp phần bước tiến của cải của đạo Hồi?
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
10. Hãy mô tả việc mất mát lãnh thổ vào tay. Hồi giáo mà Hội Thánh Cơ đốc đã trải qua trong thời kỳ trung cổ
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
TÂY GIÁO HỘI TRONG CÁC HỘI TRUYỀN GIÁO
Nước Anh
Bạn còn nhớ Cơ đốc giáo ở tại Celtic đã phát triển mạnh ở Anh quốc trong cuối thể kỷ thứ tư và đầu thế kỷ thứ năm trước khi có những cuộc xâm lăng của dân Angles, dân Saxons và dân Jutes. Vào thế kỷ thứ bảy, nước Anh lại một lần nữa được truyền giáo bởi các Cơ đốc nhân ở tại Celtic lẫn tại Lamã, là những người đã từng là những đối thủ trong lòng trung thành của những người thuộc giống dân Anglo-Saxons mới vừa cải đạo.
Giáo hoàng Gregory đệ I sốt sắng muốn cải đạo cho dân tộc Anglo-Saxons và làm cho họ có phần thuộc về mội khối cộng đồng chung của Cơ đốc giáo. Chuyện kể rằng một ngày kia khi vẫn còn là một tu sĩ Gregory nhìn thấy một số những trẻ em xinh đẹp trong khu chợ nô lệ. Khi được cho biết chúng là giống dân Anglo từ Anh đến, ông bảo chúng là những thiên thần (angels). Sau khi trở thành giáo hoàng, ông đã cử Augustine (không phải Augustine thành Hippo) và 40 tu sĩ đến tại Kent thuộc miền Nam nước Anh. Họ đến ngay trước Phục sinh năm 597. Vị vua ở tại đó, là Ethelbert người đã kết hôn với một cô công chúa người Frank theo Thiên Chúa giáo, chẳng bao lâu sau ông đã cải đạo theo Thiên Chúa giáo và đã giúp vào việc Cơ đốc hóa ba vương quốc của người Anglo-saxons ở tại miền Nam nước Anh.
Không bao lâu sau, Gregory đã phong cho Augustine chức tổng giám mục thành Canterbury, thành trung tâm của chế độ Giám mục quản lý ở tại nước Anh. Ngày nay là trung tâm Cơ đốc giáo của người Anglican. Tuy nhiên, giáo hội của người Celtic đã từ chối công nhận Augustine là vị tổng Giám mục của họ.
Một tu sĩ người Tô cách lan từ Iona tên là Aidan là người Celt đầu tiên truyền giáo cho dân Anglo, Saxons vào năm 634 hội truyền giáo của ông đã đến tại Northumbria vùng Đông bắc nước Anh. Ông lập một tu viện theo yêu cầu của vị quốc vương vùng đó trên đảo Lindisfarne (đảo thánh). Từ đó ông đi giảng đạo khắp miền Bắc nước Anh thường có nhà vua đích thân đi cùng. Đến lúc Aiden qua đời (651) hầu hết dân trong vùng đều đã cải đạo theo Cơ đốc giáo của người Celt.
Không phải cho đến thời của Synod người Whitby vào năm 664 mà Cơ đốc giáo của người Celtic cuối cùng bị Lamã hóa. Quốc vương của Northumbria, người đã hợp nhất phần lớn nước Anh của dân Anglo-Saxon dưới thời chính mình, đã quyết định giữ theo thể thức của người Lamã. Bởi vì Lamã xưng rằng họ có các chìa khóa vào thiên đàng.
Trong một vài năm, Giáo hoàng cử Theodore người Tarsus phục vụ với tư cách tổng Giám mục thành Canterbury (669-690) Theodore và những người thuộc giáo hội tiếp tục xây dựng nền tảng mà Augustine (vị Sứ đồ của dân Anh) và giáo hội ở tại Celtic đã đặt để trong khi họ tổ chức lại giáo hội mới thuộc quốc gia của người Anglo-Saxons, họ cũng giúp mang lại trật tự cho chính quyền thế tục, Sau hết, Theodore đã bắt đầu các trường học mà đã được lưu ý vì sự uyên thâm của các trường đó. York và Jarrow là hai trong số các trường nầy. Ở tại Jarrow, nhà viết sử tài năng nhất trong thời đầu trung cổ, là Bede (673-735) đã viết tác phẩm của ông lịch sử Thiên Chúa giáo của người dân Anh (Ecclesiastical History of the English People). Đó là nguồn thông tin quan trọng về nước Anh đầu tiên. Bạn hãy nhớ rằng về sau Charlemagne đã mời Alcuin thuộc thành York đến tại Đức.
11. Ghép cặp mỗi nhân vật với sự đóng góp của người ấy đối với giáo hội
1) Aidan
2) Augustine
3) Gregory
4) Theodore
…….a. Ông đã thành lập và cử các nhà truyền giáo từ Lamã đến cải đạo cho dân Anglo-Saxons.
……..b. Ông đã tái tiến dẫn Cơ đốc giáo La mã đến cho miền Nam nước Anh.
c. Ông đã truyền giáo phần lớn vùng đông Bắc nước Anh, thiết lập Cơ đốc giáo của người Celtic ở tại đó
d. Ông đã tái thành lập giáo hội của người Anglo-saxons, tạo cho nó một khung sườn quốc gia
12. Tầm quan trọng của Synod người Whitby đối với giáo hội của người Anglo-Soxons là gì?
…………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………
Nước Đức
Tiếp theo sau những nỗ lực sốt sắng của Giáo hoàng Gregory đệ I nhằm truyền giáo cho dân Lombard, dân Visigoth thuộc phái Arian, và dân Anglo-Saxons, Cơ đốc giáo Lamã đã chịu đựng một thời kỳ khó khăn. Quyền lực Giáo hoàng đang xung đột với cả dân Lombard lẫn những người cai trị Byzantine. Các vua dòng họ Merovingian thì ngày càng không làm nên trò trống gì và phẩm chất của hàng giáo phẩm và chính quyền của giáo hội đã bị suy sụp yếu bởi sự can thiệp của các nhà cai trị thế tục.
Tuy nhiên vào thế kỷ thứ tám, thế giới Cơ đốc của người Latin đã trải qua một cuộc phục hưng về đời sống tín ngưỡng. Đã có một nhiệm kỳ Giáo hoàng được tiếp sức sống và một hoàng tộc mới (dòng họ Carolingian nổi lên ở tại xứ Gaul của dân Frank. Quan trọng hơn hết, giáo hội Anglo-Saxons đã cử rất đông các nhà truyền giáo đến lục địa.
Như bạn biết, giáo hội của người Celtic đã bắt đầu nhiều tu viện và cử các tu sĩ đi khắp lục địa Châu âu bắt đầu vào cuối thế kỷ thứ sáu với Columban. Tuy nhiên đặc trưng hay lưu hành của họ đã ít để lại tính lâu bền. Cuộc tiến công dữ dội mới mẽ của các nhà truyền giáo Anglo-Saxons đã đưa tổ chức của giáo hội Lamã vào tổ chức và cột chặt họ với quyền lực của Giáo hoàng. Những nhà truyền giáo nầy đã truyền giáo cho Hà lan, Bỉ, Lục xâm bảo và Đức. Một trong những nhà truyền giáo đó là Willibord (658-739) một người Anglo-Saxons đã có được lòng sốt sắng truyền giáo từ người Ailen. Ông hoạt động dưới sự bảo vệ của những người cai trị người Frank.
“Vị sứ đồ của dân Đức” là Boniface (680-754). Được sự chúc phước của Giáo hoàng Gregory đệ II ông bắt đầu sứ mệnh của mình vào năm 719 và đã Cơ đốc hóa người Đức. Với tính độc đáo gây ấn tượng mạnh, ông ta được bảo phải hạ một cây cổ thụ mà đã được dùng vào việc thờ phượng hình tượng của dân ngoại giáo và cất một nhà thờ bằng gỗ nó. Khi không có điều dữ nào xảy ra cho ông, dân chúng trong vùng đã được cải đạo. Boniface, cũng là một người Anglo-Saxons đã dạy dỗ những người cải đạo phải trung thành với Lamã.
Với tư cách đại sứ của Giáo hoàng ở nước ngoài. Boniface đưa Pepin vua của dân Frank lên ngôi vào năm 751. Ông đã giúp cho Pepin tiếp sức cho một Hội Thánh khắp xứ Gaul. Đã trở thành tổng Giám mục của xứ Mainz, đáng lẽ Boniface đã có thể kết công tác truyền giáo của mình và về hưu ở tại Fulda, tu viện ông đã thành lập. Thay và đó, ông đã chọn quay trở về Hà lan là nơi những nỗ lực đầu tiên của ông đã thất bại. Ông đã chịu tuận đạo ở tại đó.
Như bạn có thể hình dung, những cuộc cải đạo và báp tem hàng loạt trong thời Biniface đã khiến xuất hiện nan đề của việc chịu báp tem mà không có một kinh nghiệm cá nhân về Cơ đốc giáo. Điều đó luôn luôn khiến nẩy sinh một vấn đề ở bất cứ nơi đâu mà sự cải đạo của một nhà lãnh đạo chính trị dẫn đến việc tự nhiên Cơ đốc giáo được chấp nhận một cách phổ biến.
Đôi khi người dân Đức đã bày tỏ sự miễn cưỡng phải chấp nhận Boniface vì cớ những mối liên hệ của ông với hoàng đế. Sự rằng buộc đó giữa Cơ đốc giáo với nhà nước chỉ càng chặt chẽ hơn trong thời cai trị của hoàng đế Charlemagne. Ông đã liên hệ hoạt động của việc truyền giáo với việc chinh phục bởi việc làm cho những người ngoại giáo bị chinh phục cải đạo theo Cơ đốc giáo, tôn giáo của quốc gia ông. Đến thế kỷ thứ chín và thứ mười, các hội truyền giáo đã bị liên hệ vào sự thống nhất về mặt chính trị dưới thời của đế chế Carolingian.
13. Cả Willbrod và Boniface đều đã truyền giáo cho những khu vực mới dưới sự bảo vệ của… ……………………………………………………………………………………….
14. Bằng những cách nào mà công việc của Boniface đã đóng góp cho chức vụ của Giáo hoàng?
…………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………
15. Nguy hiểm của những việc cải đạo hàng loạt là gì?
…………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………
16. Điều gì đã phân biệt hoạt động truyền giáo của những thế kỷ từ thứ chín cho đến thứ mười một với hoạt động truyền giáo của những thế kỷ đầu tiên?
…………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………
Scandinavia.
Scandinavia, về mặt vật lý bị cô lập với phần còn lại của Châu âu, là quê hương của dân Viking. Người dân Châu âu đã định cư rất sợ những kẻ cướp bóc từ phương Bắc nây. Tuy nhiên đối với Ansgar (801-865) những vùng đất phía Bắc tượng trưng cho một dân tộc cần đến Đấng Christ. Khi vua Danish yêu cầu một nhà truyền giáo vào năm 826, Ansgar đã cảm nhận được sự kêu gọi của Đức Chúa Trời. Ông đã dành 36 năm vào công việc truyền giáo ở tại phía Bắc Châu âu. Đặt cơ sở của mình ở tại những vùng đã được truyền giáo của nước Đức, Ansgar tiến hành nhiều cuộc hành trình truyền giáo vào Scandinavia.
Mặc dầu, Ansgar thường được gọi là “vị sứ đồ của phương Bắc”, chức vụ của ông là một khải tượng của sự chuẩn bị nhiều hơn là có kết quả lập tức. Vì cớ những ràng buộc của ông đối với dòng họ Carolingian, người ta đã từ chức ông và từ chối để được cải đạo trong các đám dân đông. Những gì ông dành được lại bị mất trong việc trở lại với tà giáo. Trong suốt hai trăm năm gian khổ, lịch sử Cơ đốc giáo ở tại đây là một lịch sử của sự tiến bộ và của trở lực.
Về sau, trong những thế kỷ mười một và mười hai, Denmark, Nauy, Thụy điển, Iceland và Greenland.
NHÀ THỜ CÓ ĐỈNH NHỌN CỦA NGƯỜI SCANDINAVIA.
Đã được Cơ đốc giáo hóa qua những cuộc cải đạo hàng loạt khi những nhà cai trị dẫn đường. Cũng vậy, các khu vực phía Đông thuộc Balan. Hungary và Bohemia đều quy đạo. Đến đầu thế kỷ thứ mười bốn, người dân Pomeranians, dân Lithuanians, dân Pnussians và những dân tộc khác chung quanh biển Baltic đều được Cơ đốc hóa. Lưu ý các vùng nầy trên bản đồ “sự bành trướng của Cơ đốc giáo, 600-1300” trong bài nầy.
17. Hãy viết tên của các vị: Augustine, Aidan, Boniface, Ansgar và Willibrord vào nơi nào họ đã truyền giáo.
18. Những vùng đất thuộc nước Đức đã chịu trách nhiệm cho việc phát triển tin lành đến.
a. Nước Anh.
b. Scandinavia.
c. Nước Nga.
d. Lục địa Châu âu.
19. Những phương pháp truyền giáo cho các khu vực mới bao gồm:
a. Việc thiết lập các tu viện.
b. Đối đầu trực tiếp với các tà thần trong khu vực đó.
c. Việc tìm kiếm sự bảo vệ của các vua thế tục.
d. Tất cả những điều kể trên.
20. Các hội truyền giáo đã có ảnh hưởng gì trên thể chế Giáo hoàng?
…………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………
SỰ LY GIÁO TRONG HỘI THÁNH
Nguồn gốc của giáo hội chính thống Hy Lạp
Vào năm 1054 đã có một sự phân rẽ chính thức giữa Đông và Tây thế giới Cơ Đốc. Nguyên nhân trực tiếp của sự tuyệt giao nầy là do một vấn đề rất nhỏ nhoi. Sự chia cắt nầy gây ra bởi những sự khác biệt âm ỉ hàng nhiều thế kỷ.
Về chính trị
Từ khi Constantine dời thủ đô của đế quốc Lamã về Constantinople, Hội Thánh bắt đầu bị phân chia giữa phía Đông với phía Tây. Đế quốc thật sự đã bị chia cắt vào năm 395 bởi con trai của hoàng đế Theodosius. Sau đó bởi sự sụp đổ của đế quốc Lamã ở phía Tây vào năm 476, giáo hội không bị lệ thuộc vào quyền cai trị của phía Đông.
Ở phía Đông, hoàng đế được coi như là quyền cai trị tối cao ở giáo hội cũng như của quốc gia. Sự sắp đặt ấy được gọi là hệ thống các sêsa cai trị trên cả quyền vị Giáo hoàng. Sự can thiệp nầy của các nhà cai trị thuộc đế chế vào Đông giáo hội không bao giờ được Tây giáo hội chấp nhận
Một thực tế thứ nhì về mặt chính trị là sức ép liên tục của hồi giáo trên các Hội Thánh ở phía Đông. Sau khi Justinian qua đời vào năm 565, đế quốc Byzantine đã chịu những tổn thất lớn, gồm cả Syria, Palestine và hết thảy vùng Bắc phi cho người Hồi Giáo Ả rập vào thế kỷ thứ tám, đế quốc Byzantine Constantinople, phần giữa và Nam Hylạp, một dãi đất thuộc vùng bờ biển Adriatic và chỉ miền Nam nước Ý và phía Tây Sicily. Các giáo trưởng thành Alexandria, Antioch và Giêrulalem đều thuộc quyền cai trị của Hồi giáo. Đế quốc tiếp tục bị người Hồi giáo tấn công trong khi phía Tây tương đối thoát khỏi sự tấn công sau chiến thắng của Martel ở tại thành Tours.
Một thực tế chính trị thứ ba là việc lên ngôi của Charlemagne vào năm 800 với tư cách hoàng đế của đế quốc Lamã. Sự phân chia giữa Đông và Tây lại càng rõ rệt hơn.
21. Sự tranh chiến giữa hoàng đế vào Giáo hoàng ở phía Tây có liên hệ gì với sự ly giáo trong giáo hội?
……………………………………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………………………….
22. Liệt kê ba thực tế chính trị đã làm căng thẳng các mối liên hệ giữa Đông và Tây.
……………………………………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………………………….
Về mặt trí tuệ
Chúng ta đã đề cặp đến những quan điểm khác nhau giữa Đông và Tây. Triết lý nghịch với thực tế. Các Cơ đốc nhân ở phía Tây chăm vào những điều thực tế của tổ chức, của sự hiệp nhất và của tánh chính thống ở phía Đông, sự quan tâm lại là việc giải quyết các vấn đề về thần học, bởi sự suy đoán về triết học. Vì vậy hầu hết các cuộc tranh cãi được giàn xếp bởi bảy kỳ giáo hội nghị chủ yếu đều là những mối quan tâm của phía Đông về những vấn đề như thần tính và nhân tính của Đấng Christ. Tertullian và những người khác đã ổn định những vấn đề đó ở phía Tây rồi.
23. Tìm ra từng câu, ghi số. 1. Nếu câu đó nói đến phía Đông, ghi số 2. Nếu câu ấy liên quan đến phía Tây
……..a. Thuyết Gnosticism và thuyết Nestorianism
……..b. Những mối quan hệ thực tiễn về tánh chính thống.
………c. Những người tham dự chính trong các kỳ giáo hội nghị
……..d. Thuyết Donatism
……..e. Những cuộc tranh luận thần học về tính của Đấng Christ.
24. Hệ thống các Sêsa cai trị trên cả giáo hoàng đã liên kết với các kỳ giáo hội nghị như thế nào?
…………………………………………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………………………………………….
Về giáo nghi.
Có nhiều thông lệ về giáo nghi đã phân rẽ giữa phía Tây và Đông. Hai giáo hội đều giữ lễ phục sinh vào những thời điểm khác nhau trong năm. Ở phía Đông, hàng giáo phẩm ở cấp thấp hơn được phép lập gia đình, còn ở phía Tây hết thảy các giáo sĩ, Mục sư đều phải sống độc thân. Ở phía Đông giáo nghi được tiến hành bằng thổ ngữ, nhưng ở phía Đông thì bằng tiếng Latin. Các Linh mục ở phía Tây để râu, còn ở phía Tây họ phải cạo sạch râu.
Một trong những việc sâu sắc nhất có liên quan đến việc dùng các tranh tượng và ảnh tượng trong sự thờ phượng. Kể từ thế kỷ thứ sáu trở đi, Đông giáo hội và chính quyền đã khuyến khích việc làm tranh tượng thánh và việc tôn kính những tu sĩ thánh khiết vì cớ những lời buộc tội của Hồi giáo về việc thờ hình tượng, vị hoàng đế trong thế kỷ thứ tám đã tìm cách chấm dứt thói quen quỳ gối trước các vật thể thuật. Tuy nhiên, ở phía Tây, tranh tượng và hình tượng được cho phép và thậm chí còn được khuyến khích như là Thánh kinh bằng thị giác cho những người không đọc được. Vấn đề đả phá hình tượng tiếp tục nổ ra dữ dội ở phía Đông với việc một số các hoàng đế phá hủy các tranh tượng thánh trong khi một số hoàng đế khác bênh vực công cụ của chúng. Cuối cùng, ở tại giáo hội nghị Nicaca vào năm 787 phía Đông từ chối các hình tượng nhưng cho phép các tranh tượng thánh tiếp theo sau ý kiến của John người Damascus. Ông bảo rằng trong khi việc thờ phượng hình tượng là sai, thì nó cũng có thể giúp vào mục đích nhắc nhở người ta có sự tôn kính thích đáng. Tuy nhiên, không phải phần lớn vấn đề sử dụng tranh tượng thánh đã phân rẽ Đông và Tây cho bằng sự can thiệp của các hoàng đế phía Đông vào các công việc của Hội Thánh.
25. Tìm ra mỗi khoảng ghi số 1. Nếu câu ấy nói đến phía Đông, ghi số 2. Nếu câu ấy có liên quan đến phía Tây.
…….a. Các Linh mục cạo sạch râu
…….b. Những người thuộc hàng giáo phẩm có kết hôn.
…….c. Giáo nghi được tiến hành bằng thổ ngữ.
…….d. Chỉ thờ phượng bằng tiếng Latin.
…….e. Các hình tượng và tranh tượng được khuyến khích.
…….f. Chỉ các tranh tượng thánh là được cho phép.
26. phương diện nào của cuộc tranh luận đả phá tranh tượng thánh đã làm phân rẽ Đông và Tây nhiều hơn nữa
…………………………………………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………………………………………….
Về thần học
Những khác biệt về thần học cũng đã làm phân rẽ hai vùng. Phía Đông có khuynh hướng, hướng đến phép ngụ ngôn trong việc diễn giải Kinh thánh, còn phía Tây nhấn mạnh đến phương pháp dùng ngữ pháp kết hợp với lịch sử.
Đương lúc Nicholas đệ I làm Giáo hoàng, thì Đông hoàng đế đã truất phế Ignatius giáo trưởng thành Constantinople. Photius thay thế chỗ của ông ta. Phía Đông không thích điều đó khi Nicholas ra lệnh phục chức cho Ignatius. Photius và Ignatius thay phiên nhau với tư cách là giáo trưởng. Nhưng Photius đã làm gia tăng việc căng thẳng bằng việc tố cáo Nicholas và Tây giáo hội theo tà giáo vì họ đã dùng điều khoản Filioque trong bảng tín điều Nicenne. Đây là lời truyên bố rằng Đức thánh linh ra từ Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Điều đó đã được thêm vào bảng tín điều vào năm 589, nhưng phía Đông không bao giờ chịu chấp nhận điều đó. Họ thích nói rằng Đức Thánh Linh ra từ Đức Chúa Cha bởi Đức Chúa Con.
27. Bằng cách nào Hội Thánh các Sêsa cai trị trên giáo hoàng đã được liên kết với tà giáo của Photian?
Sự bắt bớ cuối cùng đã đến vào năm 1054, khi giáo trưởng thành Constantiniple, Michael Cerularius (1043-1058) có tham vọng về uy quyền Giáo hoàng. Ông đã lên án việc Tây giáo hội sử dụng bánh mì không men trong lễ Ban Thánh Thể (một thông lệ đã bắt đầu vào thế kỷ thứ chín). Giáo hoàng Leo đệ IX (1049-1054) một nhà cải cách mộ đạo, người đã xem việc củng cố chức vụ Giáo hoàng là một phần trong việc cải cách, đã cử các đại sứ của ông ở nước ngoài làm trung gian hòa giải với Michael. không thể nào đạt được một thỏa hiệp từ Michael, các đại sứ của Leo đã dứt phép thông công ông ta cùng những người theo ông tại Hội Thánh Saint Sophia vào ngày 6 tháng bảy, năm 1054. Để đáp trả, Michael đã rút phép thông công Giáo hoàng Leo và những người theo ông. Việc thống nhất giáo hội đã vĩnh viễn bị đổ vỡ. Đông giáo hội nói tiếng Hylạp và Tây giáo hội nói tiếng Latin đã không thể đi cùng nhau bởi vì họ không thể hiểu nhau, trong nhiều cách chứ không phải chỉ một.
28. Vấn đề nhỏ nhoi cuối cùng đã dẫn đến sự ly giáo vào năm 1054 có liên quan đến.
a. Việc sống độc thân của các Linh mục
b. Điều khoản Filioque
c. Bánh mì không men.
d. Các tranh tượng thánh.
Đông giáo hội trong các hội truyền giáo.
Đến thế kỷ thứ chín, các hội truyền giáo ở phía Đông lẫn phía Tây đều bắt quán triệt được ý tưởng của việc đề ra một xã hội toàn Cơ đốc nhân. Vào thế kỷ thứ sáu, các nhà truyền giáo đã từng đề cập đến việc truyền bá Tin lành, không phải là việc áp đặt một nếp sống mới hoàn toàn lên những người mới cải đạo. Kể từ khi những nỗ lực phổ biến của Charlemagne nhằm tạo được thế giới Cơ đốc hiệp nhất, Hội Thánh đang sử dụng những chiến thuật tương tự.
Các quốc gia Balkan
Việc đưa ra vấn đề của điều khoản Filioque là một cách trong đó Photius đã làm tăng sự căng thẳng giữa Đông và Tây giáo hội. Một điều khác nữa là sự tham gia của ông vào sự kình địch dữ dội về việc truyền giáo giữa hai vùng trong việc đạt đến được trung tâm Châu âu. Khi hoàng tử xứ Moravia yêu cầu các nhà truyền giáo, Photius đã giúp chọn lựa hai anh em người Hylạp, là Cyril và Methodius. Họ biết ngôn ngữ của người Slavic, đã lớn lên ở gần dân Slavs là những người định cư ở tại Macedonia. Trước khi bắt đầu chức vụ của họ vào năm 863, họ đã chuẩn bị một bảng mẫu tự và đã viết một phần Thánh kinh bằng tiếng Slovic. Hội truyền giáo Moravian rất thành công cho đến khi dân Magyars hủy diệt Moravia.
Cơ đốc giáo chính thống Hylạp và nền văn hóa Byzantine không thể tách rời được và đã nhanh chóng lan rộng giữa vùng các bộ tộc Slavic. Giáo hoàng Nicholas đệ I đã tìm cách làm đổi hướng của Cyril và Methodius khỏi chánh thống Hylạp của họ bằng cách tạo cho họ sự mâu thuẩn của Lamã. Trong một thời gian sau khi Cyril qua đời ở tại Lamã vào năm 869, Methodius đã làm việc để loan truyền Thiên Chúa giáo Lamã bằng thổ ngữ. Điều đó làm cho hàng giáo phẩm người Frank, là những người chuyên nghiên cứu ngôn ngữ Latin, tức giận. Họ đuổi ông trở lại giáo hội Hylạp.
Những người theo Cyril và Methodius (885) đã mang các cuốn sách bằng tiếng Slavic và sứ điệp chính thống đến Bunggary. Sa hoàng của Bulgary là Boris đã qui đạo và khiến chính thống giáo trỡ thành quốc giáo. Vào năm 870, ông nhận giấy phép để lập một tổ chức giáo hội độc lập dưới quyền của giáo trưởng thành Constantinople. Điều có ý nghĩa hơn nữa, là ông đã được phép để sử dụng ngôn ngữ địa phương trong nghi thức tế lễ. Điều đó đã bắt đầu một khuynh hướng sử dụng các thứ tiếng địa phương trong các Hội Thánh thuộc các quốc gia Đông âu.
Việc tự do sử dụng ngôn ngữ Slavic là một yếu tố mấu chốt trong quyết định của Boris chọn Chánh thống giáo hơn là Thiên Chúa giáo. Thoạt đầu Boris đã được vào Thiên Chúa giáo Lamã vì cớ sự chú trọng nặng nề về nghi thức trong Chánh thống giáo của Byzantine đã qui định mọi phương diện của đời sống gồm cả việc khi nào thì tắm rửa hoặc mang thắt lưng. Thế rồi sau khi trao đổi với Giáo hoàng Nicholas đệ I, Boris đã chọn phía Đông. Dường như việc sử dụng thổ ngữ trong việc thờ phượng phong phú hơn, có sức mạnh hơn, và gần gũi hơn, nhưng chắc chắn là phức tạp hơn.
Serbia và Rumania đã tiếp nhận Cơ đốc giáo chính thống từ Bungary. Sau đó công việc của Cyril và Methodius “các vị sứ đồ của dân Slavs” đã lan đến nước Nga.
Liên bang Xô viết
Vào năm 988 Hoàng thân Vladimir thuộc kiev đã công nhận Chính thống giáo là quốc giáo, và Chánh thống giáo đã tồn tại cho đến năm 1917. Vì muốn công nhận một trong các tôn giáo chính để củng cố đế chế của mình, Vladimir đã chọn Chánh thống giáo vì sự thu hút lớn lao của nó về mặt thẩm mỹ hơn là những giá trị về trí tuệ hoặc đạo đức của nó. Cơ đốc giáo của Nga chú trọng về hình thức thờ phượng hơn là vấn đề thần học hoặc đạo đức. Biệt hiệu của tôn giáo “Pravoslavie” có nghĩa là “sự thờ phượng thật” hoặc “sự vinh hiển phải lẽ”. Hội thánh Nga đã được ích lợi từ các sách Slavic của Cyril và Methodius.
Dưới triều hoàng thân Yaroslav the Wise (1019-1054) Giáo hội Nga trở nên được dẫn đầu bởi một Giám mục người Hylạp do giáo trưởng thành Constantinople chỉ định tất cả các nhà truyền giáo, các Giám mục và nhiều Linh mục đều đến từ đế quốc Byzantine. Tiếp theo sau sự ly giáo vào năm 1054, người dân Nga đến chỗ coi thường những người theo Công giáo lamã. Giáo hội Nga được gắn bó với Chánh thống giáo Byzantine.
Trong 150 năm (1227-1380) nước Nga, (nay là một phần thuộc Liên bang Xô viết) bị những người Mông cổ hung hăng kiểm soát. Nga phải chịu khổ về mặt văn hóa. Giáo hội bị cắt đứt với những ảnh hưởng của Hylạp và bị buộc phải phát triển những nhà lãnh đạo của quốc gia. Bất chấp những người Mông cổ, người dân Nga vẫn giữ tôn giáo và nền văn hóa của họ. Khi người dân đến với Hội Thánh để tìm sự yên ủi và quyền lãnh đạo, đức tin đã lan đến các thị trấn và các làng mạc hẻo lánh. Điều đó đã dẫn đến việc hiệp nhất phong trào chủ nghĩa dân tộc với tôn giáo.
Vào năm 1325 trung tâm giáo hội được dời từ Kiev đến Moscow. Điều nầy cũng đã làm giảm ảnh hưởng từ Constantinople. Ở tại Moscow, giáo hội ở dưới sự kiểm soát lớn hơn của nhà nước thế tục. Bởi sự sụp đổ của Constantinople và đế quốc Byzatine trước quân thổ nhĩ kỳ vào năm 1453, các Cơ đốc nhân ở tại Đông âu trong đợi quyền lãnh đạo nơi nước Nga hơn là nơi Greece. Vì vậy, đôi khi Moscow được gọi là “Lamã thứ ba” giáo hội Nga gắn bó mạnh mẽ với nhà nước cho đến đầu thế kỷ thứ hai mươi.
29. Yếu tố chính nào đã giúp cho việc lan rộng Chánh thống giáo trong các quốc gia thuộc vùng Balkan và nước Nga?
……………………………………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………………………….
30 Ghép cặp các Hội Thánh với những chú trọng thích hợp của các hội truyền giáo
1) Đông giáo hội
2) Tây giáo hội
3) Cả hai giáo hội
……a. Đặt trọng tâm việc đề ra một xã hội hoàn toàn Cơ đốc
……b. Đã sử dụng ngôn ngữ địa phương trong sự thờ phượng
……c. Đã quy định mọi chi tiết trong đời sống hàng ngày.
…..d. Đã xác lập những ràng buộc đối với Giáo hoàng
…..e. Các quốc vương trong vùng quy đạo đã đưa dân chúng đến những cuộc quy đạo hàng loạt
……f. Bị thu hút đối với những đòi hỏi về mặt thẩm mỹ hơn là những nhu cầu về mặt trí tuệ hoặc đạo đức.
31. Điều gì đã dẫn đến sự phân rẽ củ giáo hội nước Nga khỏi Constantinople?
……………………………………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………………………….
Trong giai đoạn nầy, hoạt động truyền giáo quan trọng ở giữa những cuộc đấu tranh không thuộc linh ngày càng nhiều hơn để giành quyền lực giữa chế độ giáo hoàng với các hoàng đế, phần lớn Âu châu đã được truyền giáo. Trở thành một điển hình, các Cơ đốc nhân đầu tiên đã tuận đạo do phản ứng của dân ngoại giáo. Sau đó dưới sự bảo vệ của những nhà cai trị đã quy đạo, một vị giám mục tài năng đã tái dẫn đến đức tin. Sự lan rộng Cơ đốc giáo ban đầu thường chỉ là bề ngoài. Rồi sau đó là một thời kỳ lâu dài hơn của sự tăng trưởng và sự ổn định.
Bài làm tự trắc nghiệm

CÂU LỰA CHỌN . Khoanh tròn mẫu tự đứng trước một câu trả lời đúng nhất .
1. Thể chế Giáo hoàng giữa khoảng 955 đến 1047 đã chịu hổ nhục vì bị kiểm soát bởi
a. Các hoàng đế ở phía Đông
b. Giới quý tộc Ý
c. Những người Hồi giáo
d. Giáo trưởng thành Constantinople
2. Tiếp theo sau sự cai trị của Giáo hoàng Nicholas đệ I thể chế Giáo hoàng có thể
a. Duy trì được quyền lực ngang hàng với thế tục
b. Duy trì được quyền lực ngang hàng với hoàng đế
c. Thực hiện được ít ỏi về việc củng cố địa vị của mình
d. Thể hiện một trình độ thuộc linh cao.
3. Trong 1000 năm đầu tiên của Hồi giáo, nó đã làm suy yếu Hội Thánh Cơ đốc trong tất cả những khu vực sau đây NGOẠI TRỪ
a. Đông âu
b. Bắc phi
c. Vùng Địa trung hải
d. Trung đông
4. Hoạt động truyền giáo của Hội Thánh
a. Đã làm gia tăng sự kình địch giữa các nhà cai trị người Frank với quyền vị Giáo hoàng.
b. Đã đáp ứng cho những lợi ích của quốc giáo Carolingian lẫn quyền vị của Giáo hoàng.
c. Đã giải quyết được cuộc tranh chiến về quyền lực giữa các hoàng đế với quyền vị Giáo hoàng
d. Phần lớn đã bị các nhà lãnh đạo người Frank lẫn thể chế Giáo hoàng bỏ qua.

CÂU ĐÚNG SAI . Viết chữ Đ trước mỗi câu ĐÚNG và chữ S trước câu nào sai .
…..5. Phong trào cải cách Clunic đã giúp gây dựng trình độ thuộc linh của Hội Thánh qua việc đem lại cho các chức vụ của hàng giáo phẩm khỏi bị sự kiểm soát thế tục.
…..6. Những mầm móng của sự cải cách trong Hội Thánh được gieo ra bởi Hội Thánh, chứ không phải do bất cứ nhà cai trị thế tục nào.
…..7. Bước tiến thành công của Hồi giáo vào trung Đông và Bắc phi một phần do sự không hiệp nhất của giáo hội Cơ đốc trong các vùng nầy.
…..8. Một vấn đề không thể giải quyết được trong sự phân rẽ giữa các Hội Thánh phía Đông và phía Tây có liên quan ưu thế của chức vụ Giám mục lamã.
…..9. Không giống như các nhà truyền giáo phía Tây, các nhà truyền giáo phía Đông đã sử dụng những thứ tiếng của dân địa phương trong việc thờ phượng của Hội Thánh.
…..10. Tây giáo hội, không giống với Đông giáo hội, dường như đã chăm vào những hình thức về mặt mỹ nhiều hơn là vấn đề đạo đức hoặc thần học.
…..11. Giáo hội của người Nga thoát thai từ Đông giáo hội chánh thống
…..12. Giáo trưởng thành Constantinople vẫn giữ người lãnh đạo của Đông giáo hội Chánh thống ngay cả sau khi đế quốc Byzantine đã rơi vào tay của người Thổ nhĩ kỳ vào năm 1453.

  1. Ghép cặp những nhà truyền giáo với các lãnh vực truyền giáo
    1. Aidan
    2. Ansgar
    3. Augustine
    4. Boniface
    5. Willibrord
    …..a. Hà lan, Bỉ
    …..b. Đức
    …..c. Miền Nam nước Anh
    …..d. Northumbria
    …..e. Scandinavia
  2. Ghép cặp những nhân vật với danh hiệu phù hợp của họ
    1. Ansgar
    2. Augustine
    3. Bede
    4. Boniface
    …..a. Tổng Giám mục thành Canterbury
    …..b. “Vị sứ đồ của người Đức”
    ….c. “Vị sứ đồ của phương Bắc”
    …..d. Nhà viết sử của giáo hội Anh

CÂU LỰA CHỌN
15. Tìm ra mỗi câu sau đây có nói đến chủ nghĩa ly giáo vào năm 1054 nêu đúng, đánh số 1. Và nếu sai, đánh số 2.
…..a. Sự phân rẽ giữa Đông và Tây là hậu quả của một sự khác biệt nhỏ nhoi, đơn độc, giữa quyền lãnh đạo của Constantinople với Lamã.
…..b. Phía Đông và phía Tây đã diễn giải Thánh kinh một cách khác nhau
…..c. Những khác biệt trong những vấn đề giáo nghi bao gồm cả việc để râu của hàng giáo phẩm, ngày tháng của lễ Phục sinh, và chế độ độc thân dành cho hàng giáo phẩm.
…..d. Cả Đông lẫn Tây giáo hội đều thừa nhận quyền lãnh đạo của Đông hoàng đế trong các công việc của Hội Thánh.
…..c. Những cuộc xâm lăng của Hồi giáo đã giúp cho việc hiệp nhất hai vùng.
ĐÁNH GIÁ TIẾN BỘ ĐƠN VỊ 3

Trước khi tiếp tục với bài 10, hãy ôn lại từ bài 6 đến bài 9. Sau đó lấy phần đánh giá tiến bộ đơn vị 3, mà bạn sẽ tìm thấy trong tập tài liệu dành cho học viên. Gởi tờ trả lời cho trưởng trung tâm ICI của bạn, kèm với những tài liệu nào đã nêu rõ ngoài bìa của tập tài liệu dành cho học viên của bạn.

Giải đáp các câu hỏi của bài học
16. Câu trả lời của bạn. Điều đó có liên quan đến việc chinh phục những vùng đất mới và việc bành trướng đế quốc phía Tây.
1. d. Tất cả những điều kể trên
17. Augustine-Kent, Anh quốc
Aidan-Northumbria
Boniface-Hàlan, Đức, xứ Gaul
Ansgar-Nauy, Đan mạch
Willibrord-Bỉ, Luxembourg, Hà lan
2. Câu trả lời của bạn. Các nhà cai trị thế tục kiểm soát các Giáo hoàng thậm chí đến những việc bầu cử của họ. Các Giáo hoàng thường là những con người thiếu đạo đức, Vô luân.
18. b. Scandinavia
3. a. Nước Pháp
19. d. Tất cả những điều trên
4. C. Tự do khỏi quyền kiểm soát của thế tục
20. Câu trả lời của bạn. Nói chung, hoạt động truyền giáo đã củng cố thế chế Giáo hoàng khi dạy rằng phải trung thành đối với Giáo hoàng và mở rộng lãnh thổ của ông ta.
5. Câu trả lời của bạn. Đã nâng cao các tiêu chuẩn đạo đức và đời sống độc thân cũng như giảm bớt tệ mua bán phẩm trật và sự can thiệp thế tục.
21. Câu trả lời của bạn. Giáo hội ở phía Tây không bao giờ chịu để cho người lãnh đạo nhà nước can thiệp vào các công việc của Hội Thánh như thường xuyên vẫn xảy ra ở phía Đông.
6. Câu trả lời của bạn. Mỗi bên, trong việc cố gắng nhằm thực hiện uy quyền trong các việc công Hội Thánh, đều làm tăng thêm sự bại hoại của mình, đã khiến phải xảy đến sự cải cách.
22. Đó là việc hoàng đế kiểm soát Đông giáo hội, sức ép không ngừng của Hồi giáo và sự phục hưng của đế quốc hùng cường ở phía Tây dưới thời Charlemagne.
7. b. Những tôn giáo theo thuyết duy nhất thần.
23. a1.
b2.
c1.
d2.
e1
8. Câu trả lời của bạn. Đó là ân điển nghịch với việc làm.
24. Câu trả lời của bạn. Các hoàng đế phía Đông, vì lợi ích của việc hiệp nhất giáo hội, đã triệu tập và chủ trì mỗi kỳ giáo hội nghị.
9. Câu trả lời của bạn. Vùng Đông trung phải trải qua nhiều tà giáo và Bắc phi bị thuyết Donatism thu hút.
25.
a2
b1
c1
d2
e2
f1
10. Câu trả lời của bạn. Giáo hội Cơ đốc đã bị mất Hội Thánh Bắc phi và phần lớn Hội Thánh ở tại tiểu Á và vùng Địa trung hải. Phải trải qua những cuộc tấn công liên tục của phía Đông cho đến khi người Thổ nhĩ kỳ chinh phục đế quốc phía Đông.
26. Câu trả lời của bạn. Không phải phần nhiều do việc dùng tranh tượng cho bằng việc các hoàng đế phía Đông lại can thiệp vào các công việc của giáo hội.
11. a3. Gregory b. 2. Augustine c. 1Aidan d. 4. Theodore
27. Câu trả lời của bạn. Photius, người đã buộc tội Tây giáo hội theo tà giáo, là người được Đông hoàng đế chọn làm giáo trưởng chứ không phải được Giáo hoàng chọn lựa.
12. Câu trả lời của bạn. Đã tạo được một giáo hội hiệp nhất của quốc gia dưới quyền của Giáo hoàng Lamã.
28. c. Bánh mì không men
13. Những nhà cai trị người Frank
29. Câu trả lời của bạn. Những phần Kinh thánh được Cyril và Methodius dịch sang tiếng Slavic đã trở nên dễ hiểu đối với dân chúng
14. Câu trả lời của bạn. Ông được sự chấp thuận của Giáo hoàng để truyền giáo cho nước Đức, ông đã thiết lập tổ chức của giáo hội Lamã với lòng trung thành với Giáo hoàng, ông là đại sứ của Giáo hoàng ở nước ngoài, ông đã hành động như thể Giáo hoàng là đầu của Hội Thánh.
30. a3. Cả hai giáo hội
b1. Đông giáo hội
c1. Đông giáo hội
d2. Tây giáo hội
e3. Cả hai giáo hội
f1. Đông giáo hội
15. Câu trả lời của bạn. Những cá nhân có thể chịu báp tem hoặc được công nhận là Cơ đốc nhân. Song, không hề có một kinh nghiệm các nhân với Chúa Cứu thế.
31. Câu trả lời của bạn. Quân Mông cổ xâm lăng đã cô lập nước Nga khiến những người lãnh đạo thuộc quốc gia phải đứng lên, và sau đó, Constantinople bị người Thổ nhĩ kỳ kiểm soát. Moscow cũng đã trở thành trung tâm của giáo hội.