Gracias!

Our Daily Bread is hosted by Les Lamborn

http://cdn.rbc.org/odb/2011/03/odb-03-23-11.mp3

READ: 1 Chronicles 16:7-10,23-36
Oh, give thanks to the Lord! —1 Chronicles 16:8

When I visited Mexico, I wished I knew how to speak Spanish. I could say gracias (thank you), muy bien (very good), and hola (hello). But that was about it. I grew tired of just saying gracias to everyone who talked with me or did something for me.
But we should never grow tired of giving words of thanks to God. David knew the importance of saying thanks. After he became king over Israel and had a tent constructed to house the ark of the covenant (where God’s presence dwelt), he appointed some of the Levites “to commemorate, to thank, and to praise the Lord” (1 Chron. 16:4). Many people remained there to offer sacrifices and give thanks to God daily (vv.37-38).
David also committed to Asaph and his associates a song of thanks (1 Chron. 16:8-36). His psalm gave thanks for what the Lord had done: “His deeds among the peoples” (v.8), “His wondrous works” (v.9), “His wonders, and the judgments of His mouth” (v.12), and His “salvation” (v.35). David’s song also gave praise for who the Lord was: good, merciful, and holy (vv.34-35).
Like David, we should never grow tired of saying graciasto God for who He is and for all He’s done for us. Take time today to offer your sacrifice of praise to Him. —Anne Cetas

Praise, my soul, the King of heaven, To His feet thy tribute bring; Ransomed, healed, restored, forgiven, Evermore His praises sing. —Lyte

The heart filled with praise brings pleasure to God.

VIETNAMESE TRANSLATION:

Gracias!

Đọc: 1 Sử Ký 16:7-10, 23-36

Hãy cảm tạ Chúa, cầu khẩn danh Ngài; Hãy truyền bá công việc Ngài giữa các dân. – 1 Sử Ký 16:8

Khi đến viếng Mexico, tôi ước mình biết nói tiếng Tây Ban Nha. Tôi có thể nói Gracias (cám ơn), muy bien (rất tốt) và Hola (xin chào). Nhưng chỉ có vậy thôi. Tôi cảm thấy chán nản chỉ nói được gracias với mọi người trò chuyện hoặc làm cho mình việc gì. Nhưng chúng ta không bao giờ nên mệt nhọc dâng lên lời cảm tạ Đức Chúa Trời. Đa-vít hiểu biết tầm quan trọng của việc dâng lời cảm tạ. Sau khi trở thành vua Ít-ra-ên và xây lều cho rương giao ước (nơi Đức Chúa Trời ngự), ông lập một số người Lê-vi “Ngợi khen, cảm tạ, và ca tụng Đức Giê-hô-va” (1 Sử Ký 16:4). Nhiều người hằng ngày ở đó để dâng tế lễ và dâng lời cảm tạ Đức Chúa Trời (c.37-38). Đa-vít cũng trao cho A-sáp cùng anh em người một bài ca cảm tạ (1 Sử Ký 16:8-36). Thi Thiên của ông cảm tạ Chúa về việc Ngài đã làm: “Công việc Ngài làm giữa các dân tộc” (c.8), “Các công việc mầu của Ngài” (c.9), “Những phép lạ, và lời xét đoán của miệng Ngài” (c.12), cùng sự “Cứu rỗi” của Ngài (c.35). Bài ca của Đa-vít cũng ngợi khen về bản tính của Chúa: thiện lành, nhân từ, và thánh khiết (c.34-35). Giống như Đa-vít, chúng ta không bao giờ được mệt nhọc dâng lời cảm tạ Đức Chúa Trời về bản chất của Ngài và về mọi việc Ngài đã làm cho chúng ta.

Hãy dành thì giờ hôm nay dâng tế lễ ngợi khen cho Ngài. – Anne Cetas

Đức Chúa Trời ưa thích tấm lòng tuôn tràn sự ngợi khen.

(Theo Nguyễn Hữu Thịnh dịch)

 
Mọi bài vở cộng tác và góp ý xin gửi về [email protected]