BÀI HỌC 6: Việc Củng Cố Hội Thánh
Trong giai đoạn từ năm 313 đến năm 590, giáo hội trở thành một tổ chức có cơ cấu cao hơn nhiều. Hình như trọng tâm nhắm vào Hội Thánh hữu hình hơn là Hội Thánh vô hình. Chiếu chỉ Milan đã làm thay đổi lịch sử khiến cho các Cơ Đốc nhân được tự do trong việc thờ phượng và chuẩn bị dọn đường cho Cơ Đốc giáo trở thành quốc giáo. Tuy nhiên, sự ủng hộ của hoàng đế dành cho Cơ Đốc giáo đã đem đến một số những kết quả xấu. Thay vì bị bắt bớ, Hội Thánh đã trở thành kẻ bắt bớ. Giới giám mục Lamã chiếm quyền hành tuyệt đối như giáo hoàng của giáo hội Công giáo. Hội Thánh ngày càng bị thế tục hoàn toàn.
Để phản ứng lại khuynh hướng đó trong Hội Thánh, một số người đã tìm cách trốn tránh tinh thần thế gian bằng cách sống cô lập ở những nơi hoang vắng. Hệ thống tu viện ra đời. Cũng vậy, về việc thuộc linh, Hội Thánh bắt đầu truyền giáo cho thế giới bằng việc sai phái các nhà truyền giáo ra đi. Hệ thống tu viện và các hội truyền giáo tràn ngập khắp nơi trong giai đoạn này.
Khi bạn dự phần vào việc phát triển Tin lành trong khu vực của mình. Bạn sẽ cần tuân theo những gương mẫu nhất định rút ra từ bài học này cũng như bạn cần tránh những điều nguy hiểm.
Việc Củng Cố Các Mối Quan Hệ giữa Giáo Hội và Nhà Nước
Các hoàng đế Lamã
Các bộ tộc xâm lăng
Sự Phát Triển Của Thể Chế Giáo Hoàng
Sự Chính Thức Hóa của Cơ Cấu Hội Thánh
Vị Giáo Hoàng Đầu Tiên
Hệ Thống Tu Viện Và Các Hội Truyền Giáo
Giáo hội Đông Phương
Giáo hội Tây Phương
Giáo hội của người Celtic
Khi hoàn tất bài học này bạn có thể:
1) Phân tích được tác động của những thay đổi về mặt chính trị trên hội thánh.
2) Mô tả nguồn gốc của chức vụ giáo hoàng
3)Tìm được những sự đóng góp của các tu sĩ và các hội truyền giáo khác nhau đối với việc lan rộng của Hội Thánh.
- Nghiên cứu bài học này và làm bài tự trắc nghiệm theo các chỉ dẫn trong Bài 1.
2. Nghiên cứu kỹ bản đồ và liên hệ đến biểu đồ tóm tắt ở cuối sách giáo khoa này.
Cha trưởng tu viện
Tổng giám mục
Nhóm Arian
Bộ tộc
Catholicos (giáo trưởng của phái Arian)
Sự xác quyết
Các chiếu chỉ
Giáo khu
VIỆC CỦNG CỐ CÁC MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ HỘI THÁNH
Các Hoàng Đế Lamã
Đế chế Lamã trải qua sự bất ổn định không ngừng trong suốt thế kỷ thứ ba dưới 30 vị hoàng đế khác nhau. Vào năm 284 hoàng đế Diocletian thiết lập một hệ thống hoàng đế cùng cai trị với những người đồng kế vị để bảo đảm sự ổn định thêm cho chính quyền. Chính con trai, người kế vị ông, Constantine là người khởi xướng sự kết hợp thật khó tin giữa giáo hội với nhà nước. Năm 312 Constantine chuẩn bị đánh nhau với địch thủ của ông ở tại Lamã bằng cách cầu nguyện với “Đức Chúa Trời Tối Cao”. Truyền thuyết thuật lại rằng ông đã thấy một khải tượng về một chiếc thập tự giá ở trên bầu trời với dòng chữ “Dấu hiệu này sẽ mang đến sự chinh phục”. ông đã thắng trận và cải đạo theo Cơ Đốc giáo.
Với tư cách là vị hoàng đế đồng cai trị với Licinius ở phía Đông, Constantine ban hành Chiếu Chỉ Milan vào năm 313, là chiếu chỉ đã khiến cho Cơ Đốc giáo trở thành một tôn giáo hợp pháp. Mặc dầu động cơ của ông có thể không hoàn toàn chân thật, chiếu chỉ của ông cũng đã đem lại những thay đổi sâu rộng. Những Cơ Đốc nhân dưới đế chế không còn sống trong nỗi lo sợ cho tính mạng của mình, phải truyền bá Thánh Kinh trong bí mật hoặc ẩn núp trong những hầm mộ.
Constantine xem Hội Thánh Cơ Đốc và các công việc của Hội Thánh như là một phần thuộclãnh vực cai trị của ông. Mặc dầu ông không làm cho Cơ Đốc giáo trở thành quốc giáo, nhưng ông ưu đãi Cơ Đốc giáo. Ông đã trả lại tài sản cho giáo hội, cho phép những miễn trừ đối với hàng giáo phẩm, ủng hộ Hội Thánh về mặt tài chánh, biến ngày thứ nhất trong tuần lễ làm ngày thờ phượng dành cho mọi người (mặc dầu đó vốn đã là thông lệ của các Cơ Đốc nhân) và thậm chí đã giữ một vai trò chủ yếu trong các vấn đề thần học của Hội Thánh. Ông cảm thấy ông phải giúp giải quyết bất cứ xung đột nào trong Hội Thánh cũng như hết thảy các hoàng đế ngoại giáo trước kia đã giúp duy trì tôn giáo của quốc gia.
Cuộc can thiệp lần đầu tiên của Constantine vào những công việc của Hội Thánh liên quan đến vấn đề của nhóm Donatist ở tại Bắc Phi. Những người theo truyền thuyết Donatist yêu cầu ông giúp đỡ. Tuy nhiên, về sau họ đã bác bỏ quyết định của các giám mục ở tại Giáo hội nghị Arles (năm 314) là hội nghị Constantine và các hoàng đế khác tiếp tục can thiệp vào các công việc của Hội Thánh, những người theo thuyết Donatist và những người khác đã thắc mắc: “Hoàng triều thì có liên hệ gì đến Hội Thánh?”
Đến năm 324 Constantine đã nắm quyền kiểm soát lãnh thổ của Licinius ở phía Đông và trở thành người cai trị độc nhất. Ông đã triệu tập hội đồng giáo hội đầu tiên của các Hội Thánh từ Đông và Tây. Đó là Hội Đồng Nicaea (325), hội đồng bàn đến mối liên hệ giữa Chúa Cứu Thế với Đức Chúa Cha. Constantine chủ trì buổi nhóm. Những người bác bỏ thần tính của Chúa Cứu Thế là nhóm Arian. Về sau họ đã ảnh hưởng đến Cơ Đốc giáo ở khắp phương Đông, mặc dầu bản tín điều Nicaea đã công bố rõ thần tính của Chúa Cứu Thế.
Năm 330 Constantine dời thủ đô của Đế quốc Lamã từ Rôma về thành phố Byzantium và đổi tên thành Constantinople. Hiện nay là Istanbul (được đổi tên năm 1930) ở tại Thổ nhĩ kỳ. Trong sự thống trị của ông đối với giáo hội kể từ khi dời kinh đô về thành phố này. Constantine đã ấn định một khuôn mẫu mà ngày nay vẫn còn tồn tại trong Giáo Hội Chính Thống của người Hylạp, đó là nhà nước kiểm soát giáo hội.
Năm 337 ba người con trai của Constantine chia cắt đế quốc thành nhiều phần, cuối cùng một người trong số họ là Constantius trở thành người cai trị độc nhất (354-360). Ông đóng cửa các đền thờ của người ngoại giáo và tìm cách thống nhất giáo hội với một quan điểm chống lại bản tín điều Nicaea khi ông có khuynh hướng thiên về quan điểm Arian. Vào năm 361 người em họ ngoại giáo của ông là Julian trở thành hoàng đế. Trong vòng hai năm ông tìm cách áp đặt ngoại giáo lên triều đình bằng cách giảm thiểu mọi đặc quyền của giáo hội Cơ Đốc. Tuy nhiên, sau năm 363, các Cơ Đốc nhân đã cai trị đế quốc. Khi Theodosius được chọn làm hoàng đế ở Đông phương, ông đã công bố Cơ Đốc giáo là quốc giáo chính thức vào năm 380 và đã đóng cửa tất cả các đền thờ ngoại giáo. Hội Thánh trước kia bị bắt bớ nay đã trở thành kẻ bắt bớ những ai không thuộc về Hội Thánh.
Sau ba năm cai trị Đông phương và Tây phương, Thedosius qua đời vào năm 395 và Đế quốc bị phân chia giữa vòng các con trai ông. Điều này đã đánh dấu sự phân chia lâu dài của Đế quốc. Tây Đế quốc hay là Đế quốc Lamã chỉ kéo dài đến năm 476, khi các bộ tộc xâm lăng tràn chiếm Đông Đế quốc hay đế quốc Byzantine kéo dài cho đến những năm của thập kỷ 1400, khi nó bị quân Thổ nhĩ kỳ chiếm quyền kiểm soát.
Trong một thời gian ngắn ngủi, Đông Hoàng Đế Justinian đệ I (527-565) đã cố gắng để tái thống nhất hai đế quốc. Ông đại diện cho vị hoàng đế tốt nhất trong việc hiệp nhất đế quốc với đạo Cơ Đốc. Ông đã đóng cửa trường triết học ở tại Athens. Ông cảm thấy rằng với tư cách là một người Lamã và là một hoàng đế theo Cơ Đốc giáo, ông chính là người phải thi hành ý muốn của Đức Chúa Trời trong đế quốc. Ông tin rằng Hội Thánh dường như hoà nhập trong xã hội Cơ Đốc.
Vì vậy đến cuối giai đoạn nầy của lịch sử Hội Thánh, Cơ Đốc giáo trong tay của nhà nước đã trở thành tôn giáo của chính quyền, và là kẻ đàn áp kiêu căng những ai từ chối Cơ Đốc giáo.
1. Điền vào chỗ trống những câu trả lời đúng.
a. Theo thuyết Ebionitism và Donatic, chúng ta đã thấy một số các vấn đề nẩy sinh khi niềm tin Cơ Đốc bị cột quá chặt chẽ trong một nhóm người riêng biệt. Bây giờ chúng ta thấy Cơ Đốc giáo đang bị cột chặt vào ……………………………………………………….
b. Văn kiện đã làm cho Cơ Đốc giáo được hợp thức hóa là…………………………………………..
c. Vị hoàng đế đầu tiên xưng mình là Cơ Đốc nhân là ……………………………………………….
d. Công việc đầu tiên của Hội Thánh được nhà nước xử lý liên quan đến …………………….
e. Cơ Đốc giáo trở thành quốc giáo vào năm ………………………………………………………..
2. Điều gì sẽ xảy ra nếu những người trong gia đình bạn đã bị chết trong những năm nhà nước bắt bớ, thế rồi sau đó không những Cơ Đốc giáo được cho phép mà còn được chính quyền khuyến khích đẩy mạnh. Hãy viết cảm tưởng của bạn thế nào. Dùng vở ghi chép của bạn.
3. Theo bạn đời sống thuộc linh của Hội Thánh sẽ bị ảnh hưởng như thế nào bởi việc Cơ Đốc giáo được nhà nước ủng hộ và đẩy mạnh? Viết vào vở ghi chép của bạn.
4. Đến năm 590, hoàng đế đã đảm nhận vai trò gì trong các công việc của Hội Thánh?
……………………………………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………………………….
Các Bộ Tộc Xâm Lăng
Vừa đầu giữa thế kỷ thứ ba, các bộ tộc Hung nô người Đức từ miền Bắc bắt đầu xâm lăng đế quốc. Dân Visigoths đã định cư ở Dacia vào năm 271. Một thế kỷ sau, người Lamã đối xử tệ với họ. Vì vậy vào năm 378 dân Visigoths dấy loạn và giết chết hoàng đế Valens ở tại trận Adrianople. Họ lại ở yên dưới thời hoàng đế Theodosius. Sau khi đế quốc bị chia cắt do các con trai của Theodosius, dân Visigoths bắt đầu xâm lăng nước Ý vào năm 401 dưới quyền chỉ huy của vua họ là Alaric. Năm 410 họ đã chiếm thành Lamã Tây hoàng đế đến Ravenna ở miền Bắc nước Ý để sống. Khi vua Alaric qua đời, dân Visigoths trở về xứ Gaul.
Khoảng đầu thế kỷ thứ năm, người Lamã đã rút tất cả quân lính khỏi xứ Gaul và quần đảo Anh để bảo vệ chính họ khỏi quân Visigoths. Điều đó khiến cho đông đảo các bộ tộc người Đức, dân Angles, dân Saxons, dân Suevi, dân Franks và dân Burgundians đã dồn vào xâm lăng xứ Gaul, dân Angles và dân Saxons và dân Jutes đã giành quyền cai trị hòn đảo Anh. Dân Vandals tràn qua Tây ban nha và chiếm đóng Bắc Châu Phi, việc bắt đầu vào năm 429. Họ tấn công Lamã vào năm 455. Đạo quân Hung nô do Atilla chỉ huy xâm lấn Ý Đại Lợi vào năm 452 nhưng đã rút lui trước sự khẩn nài của Giám mục Leo đệ I. Năm 476 vị hoàng đế cuối cùng của Lamã ở phía Tây bị một vị vua ngoại giáo tên là Odoacer truất phế. Từ năm 493 đến năm 526, Theodoric vua dân Ostrogoths cai trị Ý Đại Lợi. Tiếp theo sự nắm quyền của Justinnian đệ I, nước Ý bị một bộ tộc khác, dân Lombard cai trị vào năm 568. Lưu ý các bộ tộc xâm lăng khác nhau trên bản đồ ở trang bên.
Người ta thắc mắc điều gì đã khiến Lamã sụp đổ? Các nhà viết sử chỉ có thể đưa ra những ý kiến của họ. Một số người cảm thấy rằng với sự nổi lên của Cơ Đốc giáo khắp đế quốc, làm cho những nhà lãnh đạo dân sự bị lôi kéo vào việc lãnh đạo của giáo hội. Điều đó đã để lại một tình trạng suy yếu. Tây đế quốc cũng nghèo nàn hơn Đông đế quốc. Với những nguồn cung ứng không thích đáng và quá nhiều người không sản xuất cần phải được chăm sóc, Phía Tây bị suy yếu nhiều.
Song sự sụp đổ của đế quốc Lamã, thât sự đã giúp cho Cơ Đốc giáo lan rộng ra. Hội Thánh được thách thức để Cơ Đốc hóa những dân tộc ngoại giáo, là người đã xâm lăng lãnh thổ của họ, cũng như để truyền giáo cho dân ngoại ở Âu châu.
5. Ghép cặp các bộ tộc xâm lăng với những vùng họ lấn chiếm
1) Dân Visigoths, dân Ostrogoths
2) Dân Vandals
3) Dân Angles, dân Saxons, dân Jutes
……a. Tây ban nha
……b. Bắc phi
……c. Quần đảo Anh
……d. Ý đại lợi
6. Những yếu tố nào dường như đã dẫn đến sự sụp đổ của Đế quốc Lamã? Viết vào vở ghi chép của bạn.
- Hãy giải thích việc sụp đổ của Đế quốc Lamã đã giúp đỡ Cơ Đốc giáo như thế nào?
………………………………………………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………………………………………………….
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHỨC VỤ GIÁO HOÀNG
Việc Chính Thức Hóa Cơ Cấu Giáo Hội
Sự hợp thức hóa Cơ Đốc giáo đã củng cố vị trí của hết thảy các Giám mục. Dần dần, giám mục ở tại thành Rôma, bởi việc dạy dỗ về việc kế tục của chức vụ sứ đồ, đã thành ra được xem như người phát ngôn của toàn thể giáo hội Cơ Đốc. Khi Constantine dời các chức vụ của chính quyền Rôma đến Constantinople, ông đã để lại một chỗ trống về quyền lãnh đạo ở tại đế quốc phía Tây. Người ngoại cũng như các Cơ Đốc nhân bắt đầu trông đợi giám mục thành Rôma cung ứng quyền lãnh đạo.
Trong suốt thế kỷ thứ tư, một hệ thống phẩm trật chính thức về các chức vụ trong giáo hội đã được triển khai tương tự như cơ cấu của chính quyền Lamã. Bậc cao nhất là giáo trưởng – Ông ta có pháp quyền trên nhiều địa phận. Năm vị giáo trưởng đầu tiên phục vụ ở tại các tòa giám mục ở Lamã, Alexandria, Antioch, Jerusalem và Constantinople. Chức vụ cao thứ nhì là chức tổng giám mục (hay là metropolitan). Vị nầy đứng đầu một địa phận của giáo hội bao gồm giáo khu của mình (thường là một thành phố chính) và các địa phận của các giám mục khác. Chức vụ thứ ba là giám mục đứng đầu một giáo khu.
Nếu một người thuộc giáo hội muốn được huấn luyện để gia nhập hàng giáo phẩm, người ấy sẽ trở thành người đọc Kinh Thánh trong các buổi lễ ở nhà thờ, rồi trở thành người giúp lễ (phụ tá), rồi đến phó trợ tế (đến năm 30 tuổi). Kế đó người ấy sẽ hầu việc như một trợ tế (năm năm) và một vị linh mục (mười năm). Đến năm 45 tuổi, người đó có thể được chọn làm giám mục.
Vị giám mục trông coi công việc chăn bầy, các lễ báp têm và lễ Ban Thánh Thể (Tiệc thánh) cho cả thành phố. Những người giúp lễ của ông ta sẽ mang tiệc thánh đến các Hội Thánh khác nhau trong thành phố. Các linh mục kết hợp với các giáo hội, nhưng vai trò của các linh mục giáo xứ, mà ngày nay phổ biến trong giáo hội Công giáo, thì đã không phát triển mãi cho đến thế kỷ thứ sáu cùng với sự xuất hiện của các giáo hội miền quê.
Tổ chức giáo hội đã lớn lên qua sự phát triển về thẩm quyền của những kỳ giáo hội nghị và thẩm quyền của các giám mục nhất định ở trên những giám mục khác. Ví dụ vào năm 381 ở tại Hội Nghị Constantinople, Hoàng đế Theodosius đã tấn phong giám mục thành Constantinople làm giáo trưởng, quyền lực cao thứ nhì so với chức giám mục Lamã. Bước tiếp theo là phong cho giám mục ở Lamã lên đến chức vụ giáo hoàng.
Cùng với việc chính thức hóa hàng phẩm trật nầy, giáo hội đã chính thức hóa giáo nghi của giáo hội. Hai thánh lễ đầu tiên là Báp Têm và Tiệc thánh đã phát triển. Bao gồm luôn cả việc làm lễ báp têm cho con trẻ, lễ kiên tín, hôn phối, lễ tiệc thánh, lễ phong chức, lễ sám hối và lễ xức dầu thánh lúc lâm chung (chuẩn bị cho người chết). Bởi vì chỉ có hàng giáo phẩm mới có thể thi hành các thánh lễ này, cho nên sự phân biệt giữa hàng giáo phẩm với các tín đồ đã rõ rệt.
Không có gì đáng ngạc nhiên, tà giáo đã tạo ra một vết hằn trên nghi lễ Cơ Đốc giáo. Khi những đám người ngoại giáo gia nhập vào Hội Thánh, họ đã mang theo những tục lệ xưa cổ với họ. Ví dụ sự sùng bái Nữ Đồng Trinh Mary, đến từ việc thờ các nữ thần. Việc tôn thờ các thánh và những người tuận đạo cùng việc sử dụng đèn cầy và nhang cũng bắt nguồn từ người ngoại. Một linh mục không có tiếng tăm đã viết như vầy:
Hầu như chúng ta nhìn thấy các nghi lễ của dân ngoại giáo được đưa vào trong Hội Thánh dưới lý cớ của tôn giáo, những dãy nến được thắp sáng giữa ban ngày và ở khắp mọi nơi người ta hôn và sùng bái một số tượng bụi đất trong một chiếc bình nhỏ, được quấn trong một loại vải quý (được trích trong bài của Eerdman, trang 133).
8. Giáo hội đã triển khai một hệ thống phẩm trật chính thức về các chức vụ trong giáo hội theo khuôn mẫu của:
a. Những sự dạy dỗ của các sách Tin lành
b. Hội Thánh thời Tân ước
c. Chính quyền Lamã
d. Tà giáo
9. Hãy liệt kê hệ thống phẩm trật của các chức vụ trong giáo hội bắt đầu từ “người đọc kinh” và kết thúc ở chức vụ “giáo trưởng”
……………………………………………………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………………………………………………..
10. Những thay đổi nào đó đã diễn ra trong giáo nghi của giáo hội trong suốt thế kỷ thứ tư.
……………………………………………………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………………………………………………..
Vị Giáo Hoàng Đầu Tiên
Cho đến cuối thế kỷ thứ tư, các hoàng đế đã thống trị giáo hội. Nhưng Damasus, vị giám mục Lamã (366-384) đã phản đối việc Hoàng đế Theodosius tấn phong chức giám mục thành Constantinople vào vị trí thứ nhì chỉ vì vị trí về mặt địa lý. Ông Damasus nhấn mạnh rằng chức vụ giám mục Lamã chủ yếu là do việc ông kế tục Phierơ ngoài ra không có gì khác. ông nhắc đến những giám mục khác như là “các con trai” chứ không phải “các anh em”.
Người kế tục Damasus đã bắt đầu sử dụng các chiếu chỉ là những bức thư áp đặt quyền hành tương tự như chiếu chỉ của một vị hoàng đế. Cuộc đấu tranh vì quyền lãnh đạo trong các công việc của Hội Thánh vì vậy đã tiếp tục giữa các vị hoàng đế với các giám mục Lamã.
Mặc dầu không phải thuộc số những giám mục kế tục ở tại thành Lamã; Ambrose vị giám mục thành Milan (374-379) đã thực hiện được nhiều hơn bất cứ người nào khác để thay đổi quyền thống trị Hội Thánh của các hoàng đế. Năm 390 ông đã dứt phép thông công hoàng đế Theodosius vì vụ giết người hàng loạt đối với 7000 công dân thành Têsalônica, là những người đã giết chết vị chỉ huy quân đội ở đó. Ambrose đã buộc hoàng đế phải công khai xin tha thứ vì tội lỗi của ông. Trên thực tế, Ambrose đã tỏ rõ rằng hoàng đế cũng thuộc trong Hội Thánh, chứ không phải ở trên Hội Thánh. Quan điểm đó được đặc trưng cho giáo hội Công giáo Lamã ở phía Tây, khác biệt với giáo hội Chính Thống Hy lạp ở phương Đông.
Giám mục Leo đệ I của Lamã (440-461) thường được gọi là vị giáo hoàng đầu tiên. Ông đã xác lập ưu thế của giáo hoàng trong thực tế (chứ không phải chỉ lý thuyết) với sự ủng hộ của Hoàng đế. Vào năm 445 Hoàng đế Valentinian đệ III ra lệnh tất cả các giám mục đều phải tham dự phiên tòa của giáo hoàng tại Hội nghị Chalcedon năm 451, Leo đã được quyển Tome của ông nói về thần tính và nhân tính của Đấng Christ. Dầu vậy, giáo hội phương Đông bài bác ông, bởi vì họ phủ nhận nền tảng Petrine dành cho ưu thế của chức giám mục Lamã. Leo tiếp tục hành động không những với tư cách của một nhà lãnh đạo thuộc linh mà còn là một nhà lãnh đạo dân sự. Ông can thiệp việc Atilla, quân Hung nô đã xâm lăng Ý đại lợi vào năm 455. Một lần nữa vào năm 455 ông nài xin dân Vandals đừng đốt thành Lamã. Ông đã thành công trong cả hai trường hợp.
Giáo hoàng Gelasius đệ I (492-496) đã mở rộng luận lý của giáo hoàng bằng cách khăng khăng cho rằng hoàng đế bảo vệ Hội Thánh song phải vâng phục sự chỉ dẫn của giáo hoàng. Không có những người nào thuộc giáo hội mà phải bị các toà án thế tục xét xử cả, còn giáo hoàng thì không bị xét đoán gì cả. Ông tuyên bố “không một ai vào bất cứ thời điểm nào vì bất cứ lý cớ nào của con người có thể ngạo mạn đặt mình lên trên chức vụ của người mà theo lệnh của Đấng Chrsit đã được cất nhắc lên trên mọi sự và mọi người, là người mà giáo hội hoàn vũ luôn luôn nhìn biết là đầu của Hội Thánh”.
Suốt một trăm năm tiếp theo đó, các vị giáo hoàng đã bị các vua xứ Goth và các hoàng đế phía Đông điều khiển và lợi dụng. Bắt đầu với Đại giáo hoàng Gregory (590-604) quyền thế của giáo hoàng đã trở thành một sự thực. Chúng ta sẽ nghiên cứu về Gregory trong Bài 8.
11. Ghép cặp những đóng góp trong việc thành lập chức vụ của giáo hoàng với những cá nhân
1) Ambrose
2) Damasus
3) Gelasius
4) Leo
…….a. Đã phản đối việc tiến cử giám mục thành Constantinople vào vị trí thứ nhì
…….b. Thường được xem như vị giáo hoàng đầu tiên và đã bắt phục tất cả các giám mục phải tham gia những phiên toà của giáo hoàng.
…….c. Đã dứt phép thông công một vị hoàng đế, bày tỏ quyền thống trị của giáo hội trong những việc thuộc linh.
…….d. Nới rộng luận lý của giáo hoàng đế miễn trừ việc giáo hoàng bị xét xử do bất cứ toà án nào. - Giải thích những thay đổi về mặt chính trị ở phía Tây đã ảnh hưởng thế nào đến sự phát triển chức vụ giáo hoàng.
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
TU VIỆN CHỦ NGHĨA VÀ CÁC HỘI TRUYỀN GIÁO
Các nguồn tư liệu bảo rằng cho đến năm 590, đa số đông đảo dân chúng trong đế quốc Lamã đã tuyên xưng theo Cơ Đốc giáo. Chúng ta có thể đoán được rằng nhiều người trong số họ chỉ là những Cơ Đốc nhân trên danh nghĩa. Tuy nhiên ở giữa sự thế tục hóa niềm tin ngày càng tăng, thì có hai hoạt động chính về mặt thuộc linh đang tạo được những tiến bộ lớn lao. Đó là chủ nghĩa tu viện và các hội truyền giáo.
Đông Giáo Hội
Đế quốc Lamã đang sụp đổ. Thuế má nặng nề và lạm phát dẫn đến sự nghèo khổ. Sự suy sụp về đạo đức làm hao mòn sức mạnh của dân chúng. Các bộ tộc hiếu chiến ở biên giới ngày càng trở nên khó kiểm soát. Trong sự mất trật tự đó, người ta thường tìm cách trốn khỏi những thực tế khắc nghiệt của đời sống bằng cách chạy đến những chỗ hoang vắng. Họ trở thành những người sống ẩn dật (là từ Hylạp dành cho chữ “hoang vu”)
Những ẩn sĩ Cơ Đốc tìm cách trốn khỏi sự băng hoại ngày càng gia tăng trong Hội Thánh. Chủ nghĩa tu khổ hạnh là một cách sống đối với nhiều tổ phụ của Hội Thánh đầu tiên cũng như những Cơ Đốc nhân khác. Sự rút lui khỏi xã hội này chịu ảnh hưởng bởi lòng tin của Gnostic vào thuyết nhị nguyên về xác thịt và linh hồn là thuyết đã len lỏi vào Cơ Đốc giáo. Người ta cảm thấy nếu họ thánh hóa hoặc trừng phạt thân thể mình bằng cách rút lui khỏi thế gian, thì linh hồn họ sẽ đến gần Đức Chúa Trời hơn.
Nhiều ẩn sĩ đã là những người cực đoan trong những nổ lực của họ nhằm đạt được sự thánh khiết. Ví dụ một người đàn ông đã sống trên đỉnh một cây cột trong 30 năm. Một người khác thì không hề tắm rửa, có những người khác đã ăn cỏ như bò.
Một người đàn ông tên Anthony (251-356) xuất thân từ Aicập là một ẩn sĩ hoặc tu sĩ nổi tiếng đầu tiên. Vào năm 20 tuổi, ông đã bỏ cả những sở hữu của mình để sống một mình trong một cái hang để có thể đắm mình trong sự suy gẫm. Bởi những kinh nghiệm của mình, những người khác đã đến tìm ông để học hỏi, nhưng ông không hề tổ chức họ thành một cộng đoàn.
Chính Pachomius (292-346) là người đã tổ chức tu viện đầu tiên (320) ở tại Ai cập và cũng giới thiệu chủ nghĩa tu viện của người tu hành nghĩa là “đời sống cộng đồng”. Ông ta phản đối chủ nghĩa cực đoan và lập một khung sườn thờ phượng và làm việc đặc trưng cho hết thảy đời sống tu viện về sau. Các thành viên đã lên bảng giờ giấc các bữa ăn và giờ thờ phượng một cách đều đặn, tự gây quỹ qua những sinh hoạt như làm vườn và dệt vải. Họ phải học thuộc lòng các phần Kinh Thánh và vì vậy phải được dạy biết đọc và viết. Pachomius đã bắt đầu có những cộng đồng dành cho phụ nữ cũng như đàn ông.
Basil ở thành Caesarea (330-397) được sinh ra trong một gia đình Cơ đốc giàu có, nhưng ông đã trở thành một ẩn sĩ và đã thành lập một cộng đồng. Về sau, ông đã được thụ phong và sau đó được bầu làm giám mục thành Caesarea ở tại Cappadocia (năm 370). Ông kết hợp cộng đồng tu sĩ với giáo hội. Chủ nghĩa tu viện dưới quyền của các giám mục hoàn toàn có hiệu quả trong những lãnh vục về trợ giúp y tế, cứu trợ người nghèo và việc giáo dục. Ngày nay, nguyên tắc của Basil vẫn còn được sử dụng trong giáo hội Chính Thống Hi Lạp.
13. Vì sao có nhiều người trốn đến những sa mạc?
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
14. Mô tả đời sống tu viện mà Pachomius đã hình thành và Basil đã triển khai.
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
Trong thời kỳ này, những người khác đã cảm nhận được sự kêu gọi của Đức Chúa Trời để truyền giáo cho khu vực quanh đế quốc Lamã. “Gregory ngọn Hải Đăng” (257-323), con trai của một gia đình quý tộc Atmêni, đã đến Caesarea thuộc xứ Cappadocia để được đào tạo. Ông đã chịu báp têm tại đó. Vào năm 25 tuổi ông trở về Atmêni và nhanh chóng chinh phục được sự ái mộ của Nhà vua Tiridates đệ III. Song không bao lâu sau ông đã làm cho nhà vua tức giận vì không chịu thờ lạy hình tượng. Sau khi bị bắt bỏ vào ngục mười bốn năm, Gregory đã thành công trong việc cải hóa nhà vua trở về tin nhận Chúa. Tòa án của triều đình, quân đội và thuờng dân, hết thảy đều trở thành Cơ Đốc nhân trong một cuộc cải đạo hàng loạt. Vì vậy, theo luật pháp vào năm 303 chính Ạtmêni đã trở thành quốc gia đầu tiên theo Cơ Đốc giáo.
15. Cơ Đốc giáo có thể bị luật pháp lợi dụng hoàn toàn không? Giải thích câu trả lời của bạn.
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
Gregory đã được tụ phong tại thành Caesarea và về sau trở thành Giáo trưởng phái Arian (Catholicos) của Ạtmêni. Ông bắt đầu rao giảng cho dân chúng bằng ngôn ngữ địa phương, là, phép báptêm cho những người mới tin đạo và phá hủy các hình tượng tà thần. Bởi việc thiết lập các trường học, ông đã phát triển được những con người có tài năng để dẫn dắt hội thánh. Mặc dầu ông không còn sống để chứng kiến điều đó, ông cũng đã tự hào vì bản dịch Kinh Thánh đã được xuất bản vào khoảng năm 400. Sự tận trung của người Atmêni đối với Kinh Thánh đã giúp sức cho họ trải qua tương lai gian khổ của họ.
Một nhà truyền giáo khác là Ulfilas (311-383) đã truyền giáo cho dân Goth và dân Visigoth cho đến Bắc Tiểu Á. Ông là con trai của những người Cappadocia theo Cơ Đốc giáo bị những bộ tộc xâm lăng này bắt giữ. Có lẽ chúng ta nên gọi ông là một “vị truyền giáo bất đắc dĩ” Đức Chúa Trời sử dụng mọi người trong mọi hoàn cảnh để phát triển Tin lành.
Vào năm 341 Ulfilas được phong chức giám mục của xứ Goths do giám mục thuộc phái Arian ở thành Constantinople. Trong suốt 40 năm kế tiếp,ông kiên nhẫn làm việc với những dân tộc ngoại giáo phóng túng, vô kỷ luật ở bên ngoài và sau nầy ở bên trong đế quốc. Nhờ việc phát minh một bản mẫu tự, ông đã đặt thứ tiếng nói họ thành ra hình thức chữ viết và đã dịch Kinh Thánh cho họ. Tuy nhiên, ông bỏ qua các sách Samuên và sách Các vua vì ông cảm thấy các dân ngoại giáo đã hiểu biết đủ về chiến tranh rồi.
Chúng ta phải lưu ý Ulfilas là một Cơ Đốc nhân theo pháo Arian vì vậy ông đã rao giảng rằng Chúa Cứu Thế không phải là thần song là tạo vật cao nhất của Đức Chúa Trời. Giáo hội ở tại Tây phương đối diện với công tác khó khăn trong những năm có sự cải đạo của không những chỉ bộ tộc ngoại giáo mà ngay cả đến các dân Visigoths thuộc xứ Tây ban nha từ chủ thuyết Arian sang Cơ Đốc giáo chính thống.
16. Trong việc truyền giáo cho người Ạt mê ni lẫn người dân Goths. Kinh Thánh đã:
a. Bị ngăn giữ, không phổ biến cho người ta
b. Được chuyển sang tiếng La tinh
c. Được dịch sang ngôn ngữ địa phương
d. Có quan trọng.
17. Ghép cặp những đóng góp đối với chủ nghĩa tu viện và các hội truyền giáo với những người đóng góp
1) Anthony
2) Basil
3) Gregory
4) Pachomius
5) Ulfilas
……a. Đã truyền giáo cho dân Goths
……b. Sống một cuộc sống cô độc để suy gẫm ở tại Aicập.
……c. Cải đạo cho người Atmêni theo Cơ Đốc giáo.
……d. Kết hợp chủ nghĩa tu viện với giáo hội.
……e. Đã thiết lập tu viện đầu tiên.
Tây Giáo Hội
Athanasius (295-373) giám mục thành Alexandria, có lẽ là người đầu tiên đã tiến dẫn chủ nghĩa tu viện vào phương Tây. Ông đã bị lưu đày năm lần dưới triều đại của các hoàng đế khác nhau ở phía Đông vì đã chống lại thuyết Arian. Vào năm 335 khi ông bị đày đến Trier (hiện nay thuộc nước Đức), có hai tu sĩ cùng đi với ông. Athanasius là một người bạn của ẩn sĩ Anthony và ông đã viết một cuốn sách về Anthony, tựa là cuộc đời của thánh Anthony. Cuốn sách ấy đã giúp lan truyền ý tưởng của chủ nghĩa tu viện khắp phía Tây.
Người đã đặt khuôn mẫu cho công cuộc truyền giáo của các tu viện là Martin ở thành Tours (316-397) được sinh ra ở vùng này là Hungary, ông cảm nhận được sự kêu gọi của Đức Chúa Trời để truyền giáo cho phía Nam xứ Gaul. Ông đã trở thành một ẩn sĩ và đã sống một đời sống gương mẫu đến nỗi lôi cuốn được số đông người đi theo ông và hình thành một cộng đồng. Do yêu cầu của dân chúng. Martin được bổ nhiệm chức vụ giám mục thành Tours (372-397) là một vùng phần lớn chưa được truyền giáo. Mối quan tâm thực sự của ông chính là việc cải đạo cho tầng lớp dân quê chất phác ở khắp vùng nông thôn. Vì vậy ông đã thiết lập một tu viện và sai phái các nhóm tu sĩ đi ra như là những chiến sĩ để rao giảng Tin lành, làm báp têm cho người hoán cải, và phá hủy các hình tượng. Qua nhiều năm, tu viện của ông đã phục vụ nhằm chuẩn bị cho nhiều giám mục tương lai.
Công việc của Martin đã gây được sức ảnh hưởng ở tại xứ Gaul, nhưng một thế kỷ sau vào năm 496 sự phát triển quan trọng dành cho Cơ Đốc giáo ở tại đó mới đến khi Clovis, vua dân xứ Franks đã cải đạo qua ảnh hưởng của người vợ đã tin Chúa của ông. Các đám đông dân chúng đã theo gương ông trong việc chịu báp têm. Có bao nhiêu người trong số những người mới cải đạo này là thành thật, chúng ta không biết được, nhưng hết thảy người dân xứ Gaul đều đã trung thành với giáo hội Cơ Đốc về mặt hình thức. Xứ Gaul đã trở thành một nền tảng cho những nổ lực truyền giáo của các nơi khác và các tu sĩ người Frank trở thành những nhà ủng hộ mạnh mẽ của chức vụ giáo hoàng ở tại Lamã.
Chủ nghĩa tu viện lan rộng khắp phía Tây. Augustine ở thành Hippo (354-430) thuộc Bắc phi đã bắt đầu thực hành việc có một nhóm giáo phẩm độc thân sống với nhau và hầu việc Hội Thánh địa phương. Ông và một số các bạn hữu của mình đã thực hiện công việc này, dâng mình chủ yếu để nghiên cứu học tập thậm chí sau khi ông đã trở thành giám mục, năm 395.
Trong lúc đó, quay lại tại xứ Gaul, John Cassian (360-435) đang viết những nhận định chi tiết về chủ nghĩa tu viện, là điều đã tiếp tục lan tràn suốt thế kỷ thứ năm. Ông cũng đã thành lập một tu viện dành cho nam giới và một tu viện cho nữ giới ở tại Marseilles. Do đã từng được huấn luyện, đào tạo như một tu sĩ ở các tu viện phía Đông, ông quan tâm đến việc tránh sống thiếu mục đích, tự làm bần cùng tu viện mà ông đã trải qua ở tại đó và phải đem lại một mục đích về văn hóa cho hệ thống tu viện. Mục đích mà ông nêu lên cho các tu sĩ là phải hoán cải và giáo dục cho người khác.
Cassiodorus (490-583) một viên chức cao cấp trong triều đình của nhà vua Theodoric ở tại Lamã, đã tìm cách để nâng cao trình độ nền văn hóa của người Lamã và dân Goth. Nhận biết sự suy thóai của hệ thống giáo dục, Cassiodorus đã đệ trình lên giáo hoàng rằng phải thành lập tại Lamã một trường học Cơ Đốc. Dự án đã được bắt đầu nhưng không bao giờ hoàn tất. Vì vậy Cassiodorus đã tạo dựng ngôi trường của ông ta ở tại vùng Calabria, Ý Đại Lợi để chuẩn bị một môn học nghiên cứu thấu đáo dành cho những người khổ tu Cơ Đốc. Ông cùng các tu sĩ của mình tập họp một bộ sưu tập lớn về các tài liệu văn học thế tục và các tài liệu thánh, sao chép các bản sao của từng thứ bản thảo. Nhờ đó ông đã đưa kiểu mẫu dành cho Kinh Thánh (Scriptoria) của tu viện (việc sao chép các thư bản) đó là phải gìn giữ cả văn chương cổ điển lẫn các tác phẩm của những tổ phụ của Hội Thánh đầu tiên cho những thế hệ tương lai.
Rốt lại, đời sống tu viện đã bắt đầu được thể thức hóa suốt trong chức vụ của Giáo hoàng Gregory đệ I (590-604). Ông đã làm hết sức để củng cố nguyên tắc của Benedictine là điều đã được ông lưu tâm sau cái chết của tác giả nó. Benedict người vùnng Nursia (480-547) đã thành lập tu viện ở tại Monte Cassino vào năm 529. Nó đã trở thành tu viện nổi tiếng nhất ở cả Châu Âu và đã tồn tại cho đến khi bị đánh bom vào Đệ I Thế Chiến. Benedict đã sử dụng ý thức chung rộng lớn để viết bản Nguyên tắc của ông. Ông đã đem đến một sự tự do nào đó cho sự kiềm chế. Các tu sĩ phải có một chế độ ăn kiêng tốt, và họ phải sắp xếp những thì giờ thờ phượng hàng ngày, lao động chân tay, đọc sách thánh. Sự chú trọng nhằm vào việc hiến thân cho Chúa và cho công việc. Cuối cùng, hầu hết các tu viện đã tiếp thu nguyên tắc của Benedict và cũng đã trở thành các phần chính yếu của việc học hỏi.
18. Ghép cặp những đóng góp với người đóng góp
1) Athanasius
2) Augustine
3) Benedict
4) John Cassian
5) Cassiodorus
6) Clovis
7) Martin of Tours
……a. Đã thành lập tu viện Monte Cassino và bản nguyên tắc nổi tiếng
…….b. Đã sử dụng các nhóm tu sĩ để truyền giáo cho xứ Gaul
…….c. Đã đưa dắt những đám đông dân miền quê đến với Cơ Đốc giáo
……d. Đưa ra mục đích về văn hóa để đào tạo hệ thống tu viện
……e. Đã tiến dẫn Kinh Thánh (scriptona) của tu viện
……f. Đã viết một cuốn sách về Anthony
……g. Đã thành lập hàng giáo phẩm độc thân để phục vụ hội thánh địa phương
- Mô tả những phương cách khác nhau mà qua đó hệ thống tu viện đã phục vụ Hội Thánh và xã hội ở tại phía Tây.
……………………………………………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………………………………….
Giáo Hội Của Người Celt
Chúng ta không biết Hội Thánh đã bắt đầu ở các hòn đảo Anh từ lúc nào nhưng đã có các giám mục của người Celt đại diện cho nó ở tại Giáo hội nghị Arles vào năm 314. Cũng vậy, Pelagius đã từ giáo hội Anh quốc đến tại lục địa vào năm 410 và đã dạy dỗ thứ tôn giáo kỳ lạ của ông, chúng ta sẽ học đến trong bài kế tiếp. Ngay trước sự kiện này, vào năm 407 các đội quân Lamã đã rút khỏi các Hòn Đảo để chiến đấu với dân Visigoths ở tại Ý Đại Lợi, giáo hội đã bị bỏ lại không có sự bảo vệ, và người dân Celt đã bị giết chết hoặc bị dân Angles, dân Saxons và dân Jutes đánh đuổi. Nước Anh một lần nữa được cả những Cơ Đốc nhân ở đảo Celt lẫn Lamã truyền giáo cho, là những kẻ đã trở thành đối thủ về sự trung thành của những người dân Anglo-Saxons.
Trong lúc đó, có một người tên Patrick (389-461) đã có được sự thành công rộng lớn trong việc truyền giáo cho Ailen. Vào năm 16 tuổi, anh bị bắt từ đất nước của mình là Anh quốc thuộc quyền của Lamã và bị đưa sang Ailen. Trong thời gian đó, anh đã kinh nghiệm được một sự thay đổi sâu xa về mặt thuộc linh. Sau sáu năm chă nuôi cừu, anh đã trốn đến Pháp, về sau trong một khoảng thời gian nào đó, anh ta thấy một giấc mơ mà trong đó anh nghe thấy lời kêu gọi của người Ailen “chúng tôi nài xin anh, hỡi chàng thanh niên thánh khiết, hãy đến và đi lại ở giữa chúng tôi như trước kia”. Vào năm 432, sau khi được huấn luyện để làm chức vụ, anh đã trở về Ailen với tư cách một giám mục. Sự tận tâm sâu xa của cá nhân ông đối với Chúa, sự sốt sắng truyền giảng và sự can đảm khi đối diện với những nguy hiểm đã thuyết ohục nhiều người từ bỏ những hình tượng tà thần và tiếp nhận Đấng Christ. Khi Patrick qua đời, Ailen phần lớn đã theo Cơ Đốc giáo.
Có thể Patrick đã đưa nếp sống khổ hạnh và chủ nghĩa tu viện vào Ailen. Rất có thể ông đã có mối liên hệ với các tu viện ở xứ Gaul. Tu viện (nhà tu) của người Ailen do cha trưởng tu viện đứng đầu đã trở thành đơn vị căn bản của giáo hội còn hơn cả giáo khu do một giám mục đứng đầu.
Hệ thống tu viện của Ailen đã trở nên hoà nhập vào với xã hội địa phương. Mỗi bộ tộc đều có tu viện riêng và cha trưởng tu viện được chọn từ thị tộc gia đình. Các giám mục chỉ phục vụ với tư cách người chịu trách nhiệm về các thánh lễ, chứ không như người lãnh đạo giáo hội.
Tầm quan trọng lớn lao của vị truyền giáo thuộc Hội Thánh người Celt được nhìn thấy qua đời sống của Columba (521-597). Ông là một cha trưởng tu viện người Ailen, người đã truyền giáo cho xứ Tô cách lan. Ông đã thành lập một tu viện ở tại đảo Iona vào năm 563. Tu viện đã trở thành trung tâm những hoạt động của các hội truyền giáo lan rộng khắp lục địa Tây âu. Columba là một nhân vật điển hình của giáo hội Celt. Ông đã tham gia vào công việc của các vua và các trưởng bộ tộc. Ông có một mối quan tâm dành cho việc học thuật và ông yêu mến thiên nhiên.
Các tu sĩ ở đảo Celt là những nhà đại lang thang. Tuy nhiên vào năm 575 Columbanus (540-615), một nhà Ai len khác đưa một nhóm các tu sĩ đến Anh và từ đó lan rộng chủ nghĩa tu viện của dân Celt đến đất Pháp, ý và dân xứ Alps. Ông thành lập khoảng 40 tu viện. Đã chán ghét việc sống thiêú đạo đức và vô kỷ luật mà ông thấy được tại Châu Âu, ông áp đặt những nguyên tắc khắt khe cho các tu viện của mình.
Ông và những môn đệ của ông đã thu hút sự chú ý của Giáo hoàng Gregory đệ I do sự thể hiện không chính thống của họ (tóc cắt ngắn và kiểu y phục khác), sự họ thừa nhận một ngày tháng xen kẽ dành cho lễ Phục sinh, và đặc biệt là việc họ từ chối vâng phục các giám mục. Chủ nghĩa tu viện của Celt đại diện cho một sự đe dọa đối với chế độ giám mục quản lý, điều cốt lõi của giáo hội Công giáo Lamã. Như đã lưu ý ở phần trước, Giáo hoàng Gregory đã bắt đầu tìm cách củng cố Nguyên tắc của Benedict trong tất cả các tu viện để đảm bảo tính cách chính thống trong khu vực thuộc cơ cấu giáo hội Thiên Chúa Giáo.
Trong phần mô tả vắn tắt về chủ nghĩa tu viện này, chúng tôi đã cho thấy nhiều ảnh hưởng tốt của nó như là công tác truyền giáo, việc giáo dục, và việc học thuật. Tuy nhiên chủ nghĩa tu viện cũng có những ảnh hưởng tiêu cực. Nó đã đem lại một cái nhìn méo mó về đời sống Cơ Đốc. Nó đưa ra hai trình độ đạo đức: một dành cho hàng giáo phẩm là người thề nguyện chịu khó nghèo, độc thân, và phục tùng; và một dành cho các tín đồ. Điều đó làm tăng thêm những niềm tin không có trong Kinh Thánh cho rằng phần thuộc thể của con người là điều xấu và rằng sự cách ly tự động sẽ sản sinh ra sự thánh khiết. Chủ nghĩa tu viện đã bỏ qua việc khuyến khích hôn nhân Cơ Đốc và đơn vị gia đình Cơ Đốc là điều mà chính Đức Chúa Trời truyền phán.
20. Nhận ra từng yếu tố là 1) Nếu yếu tố ấy đặc trưng cho giáo hội Celt, hoặc là 2) Nếu nó không đặc trưng cho điều đó.
……a. Cốt lõi là tu viện và vị cha trưởng tu viện
……b. Các giám mục phục vụ như những người lãnh đạo giáo phái.
……c. Đó là một giáo hội truyền giáo thật sự.
……d. Các tu sĩ Ailen có thể nhận diện được do sự thể hiện bên ngoài của họ
……e. Giáo hội kỷ niệm Lễ Phục Sinh theo ngày thánh Lamã đã ấn định.
21. Ghép cặp những sự đóng góp với những người đóng góp
1. Columba
2. Columbanus
3. Patrick
…….a. Đã truyền giáo cho Ai len và khiến quốc gia này hầu hết là Cơ Đốc nhân khi ông qua đời.
…….b. Đã truyền giáo cho Tôcáchlan và khiến cho Iona thành trung tâm hoạt động của hội truyền giáo.
…….c. Đã thành lập 40 tu viện ở tại Âu châu và đã đe doạ chế độ giám mục quản lý của giáo hội Lamã bằng cách từ chối tuân phục các giám mục.
22. Hãy kể ra ba điều để phân biệt giáo hội Celt với giáo hội Lamã
……………………………………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………………………….
23. Một số điểm bất lợi của chủ nghĩa tu viện là gì?
…………………………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………………………
Trong bài này chúng ta đã thấy được ảnh hưởng của những thay đổi về mặt chính trị trên Hội Thánh. Với sự ủng hộ của chính quyền, chứ không còn bắt bớ, Hội Thánh đã có cơ hội để củng cố cơ cấu Hội Thánh, thành lập chức vụ giáo hoàng, và sử dụng rất nhiều năng lực vào việc truyền giáo cho những vùng đất mới. Khi Hội Thánh kinh qua sự tăng trưởng nhanh chóng, thì Hội Thánh phải nhắm đến việc chính thức hóa giáo lý chính thống để đem lại sự hiệp nhất. Trong bài tiếp theo chúng ta sẽ nghiên cứu những vấn đề về giáo lý khác nhau mà Hội Thánh có đề cập cũng như những nhà lãnh đạo chủ chốt của Hội Thánh trong giai đoạn này.
Bài Làm Tự Trắc Nghiệm
CÂU ĐÚNG SAI . Hãy viết chữ Đ vào khoản trống ở trước câu đúng . Viết chữ S nếu câu sai.
…..1 Chiếu chỉ Milan đã mang lại sự hợp thức hóa cho tôn giáo Cơ Đốc.
…..2 Sự tham gia của Constantine vào cuộc tranh cãi của những người theo thuyết Donatist đã ấn định một tiền lệ cho Hội Thánh để chỉ nhận được sự giúp đỡ của hoàng đế khi nào Hội Thánh muốn.
…..3 Quân xâm lăng ngoại giáo đã thất bại trong việc truất phế hoàng đế Lamã mặc dầu họ đã chiếm giữ Ý Đại Lợi.
…..4 Mỉa mai thay Cơ Đốc giáo là tôn giáo đã từng được làm cho trở thành tôn giáo chính thức của Đế quốc Lamã lại có thể góp phần dọn đường cho đế quốc đến chỗ thất bại.
CÂU CHỌN LỰA . Khoanh tròn mẫu tự đứng trước câu trả lời đúng nhất .
5. Trong thế kỷ thứ tư, Hội Thánh đặt trọng tâm vào
a) Các mối tương quan cá nhân với Đức Chúa Trời
b) Việc quay lại kiểu thờ phượng trong thế kỷ thứ nhất.
c) Chính thức hóa việc thờ phượng
d) Việc loại trừ tất cả những ảnh hưởng ngoại giáo trong việc thờ phượng
6. Một hệ thống phẩm trật chính thức của các chức vụ giáo hội đã phát triển trong thế kỷ thứ tư để đáp ứng với
a) Việc củng cố địa vị cho tất cả các giám mục
b) Kiểu mẫu của chính quyền ở tại Lamã
c) Nhu cầu dân sự cũng như quyền lãnh đạo thuộc linh
d) Tất cả những điều kể trên
7. Chức vụ giáo hoàng dường như phát triển phần lớn để
a) Loại bỏ quyền thống trị của các hoàng đế đối với giáo hội
b) Giúp cho giáo hội có năng lực để cai trị trong chính quyền địa phương và chính quyền nhà nước.
c) Làm cho giáo hội và nhà nước đồng đẳng về quyền lãnh đạo
d) Thúc đẩy các giám mục trông mong một chức vụ cao hơn.
8. Ghép cặp những nhân vật với những đóng góp của họ đối với chủ nghĩa tu viện
1) Gregory biệt danh
Ngọn Hải Đăng
2) Ulifilas
3) Cả hai ông
…….a Có một sự quan tâm trong việc huấn luyện những người mới cải đạo bằng chính ngôn ngữ của họ.
…….b Bị bỏ tù 14 năm vì làm chứng cho Chúa
…….c Trở thành vị giáo trưởng (Catholicos) đầu tiên của Atmêni
…….d Được phong chức giám mục của dân xứ Goth
…….e Có liên hệ với xứ Cappadocia (Cápbađốc)
- Ghép cặp những nhân vật thuộc Tây giáo hội với những sự đóng góp của họ
1) Athanasius
2) Augustine
3) Benedict
4) Cassian
5) Cassiodorus
6) Clovis
7) Martin ở thành Tour
…..a Kinh Thánh (Scriptoria)
…..b Monte Cassino
…..c Sự cải đạo của cả quốc gia
…..d Cuộc đời của Thánh Anthony
…..e Nhà truyền giáo cho phía Nam xứ Gaul
…..f Mục đích về văn hóa dành cho hệ thống tu viện.
…..g Nếp sống cộng đồng dành cho hàng giáo phẩm độc thân - Ghép cặp những nhà lãnh đạo của giáo hội của người Celt với những vùng họ đã truyền giáo
1) Columba
2) Columbanus
3) Patrick
…..a Ailen
…..b Tô Cách Lan
…..c Anh, Pháp, Ý, xứ Alps - Ghép cặp giáo hội với sự chú trọng chủ yếu thích hợp
1) Phía Đông
2) Phía Tây
3) Đảo Celt
…..a Mục đích về giáo dục đào tạo
…..b Chủ nghĩa khổ tu của cá nhân
…..c Những hoạt động của hội truyền giáo
CÂU TRẢ LỜI NGẮN . Hoàn thành những câu sau càng ngắn càng tốt
13. Đối chiếu giáo hội ở đảo Celt với giáo hội Lamã
……………………………………………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………………………………………..
14. Hãy kể ra một vài bất lợi của chủ nghĩa tu viện
……………………………………………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………………………………………..
Giải Đáp Các Câu Hỏi của Bài Học
-
Câu trả lời của bạn. Do có chỗ trống trong quyền lãnh đạo ở tại Lamã và do có những cuộc xâm lăng của dân ngoại giáo, dân chúng mong đợi giám mục đứng vào vị trí lãnh đạo. Uy tín và thẩm quyền cộng thêm đó kèm với việc chấp nhận quyền thừa kế sứ đồ chẳng bao lâu đã dẫn đến việc giám mục Lamã tự xưng mình là “giáo hoàng” hay là “cha” trên tất cả các giám mục khác, là những con trai.
1. a. Chính quyền của nhà nước
b. Chiếu chỉ Milan
c. Constantine
d. Thuyết Donatic
e. 380
13. Họ đã chạy trốn vì những lý do thuộc về xã hội để rút mình khỏi những thực tế của một xã hội suy đồi hoặc vì những lý do về thần học nhằm cố gắng đạt được sự công bình qua chủ nghĩa khổ tu.
2. Câu trả lời của bạn. Bạn có thể có cả cảm giác vui mừng lẫn với sự sửng sốt, và nỗi nghi ngờ củng như một sự thù hận nào đó.
14. Pachomius đã triển khai một nếp sống cộng đồng nhắm vào sự thờ phượng và làm việc, bao gồm việc học thuộc lòng Kinh Thánh. Basil đã kết hợp hết thảy điều đó vào giáo hội, điều đó đã dẫn đến hiệu quả trong việc cứu giúp về y tế, giúp đỡ người nghèo và việc giáo dục.
3. Câu trả lời của bạn. Đời sống thuộc linh và sự tận hiến của cá nhân có thể bị giảm thiểu đến một mức nào đó khi việc tuyên xưng đức tin Cơ Đốc trở thành một điều phổ biến.
15. Câu trả lời của bạn. Mặc dầu luật pháp có thể đem lại một bầu không khí thuận lợi cho Tin lành, song những sự kêu gọi của Tin lành đối với sự kết ước cá nhân là điều không thể nào bị luật pháp ép buộc được.
4. Hoàng đế Justinian đệ I với tư cách đứng đầu Đế quốc phía Đông đã coi mình như người cai trị về mặt thuộc linh và cũng xem giáo hội như là phải hoàn toàn bị nhận chìm trong quốc gia.
16. c. Được dịch sang ngôn ngữ địa phương
5. a. 2) Dân Vandals
b. 2) Dân Vandals
c. 3) Dân Angles, dân Saxons, dân utes
d. 1) Visigoths, dân Ostrogoths
17. a. 5) Ulifilas
b. 1) Anthony
c. 3) Gregory
d. 2) Basil
e. 4) Pachomius
6. Câu trả lời của bạn. Có lẽ có hàng loạt những nhà lãnh đạo giỏi, từ các chức vụ dân sự đã chuyển sang các chức vụ của giáo hội, có một sự nghèo đói lớn đã làm suy yếu đất nước.
18. a. 3) Benedict
b. 7) Martin ở thành Tours
c. 6) Clovis
d. 4) John Cassian
e. 5) Cassiodorus
f. 1) Athanasius
g. 2) Augustine
7. Câu trả lời của bạn. Điều đó buộc HT phải tìm cách cải đạo cho những nhà cai trị ngoại đạo và phải truyền giáo cho các bộ tộc ở khắp Tây Âu.
19. Câu trả lời của bạn. Các tu sĩ đã truyền giáo cho những người hư mất, làm báp têm cho những người hoán cải, phá hủy các thần tượng, dành thì giờ để học tập, đã cung ứng sự giáo dục và gìn giữ các tài liệu thế tục cũng như thiên thượng bằng cách sao chép các bản sao của các bản thảo.
8. c. Chính quyền Lamã
20. a. 1
b. 2
c. 1
d. 1
e. 2
9. Người đọc kinh, giúp lễ, phó trợ tế, linh mục, giám mục, tổng giám mục, giáo trưởng.
21. a. 3) Patrick
b. 1) Columba
c. 2) Columbanus
10. Hai thánh lễ đã bị biến ra thành bảy giáo lễ, những yếu tố thờ phượng của người ngoại giáo cũng đã len lỏi xâm nhập vào.
22. Người dân Celt không chính thống trong cách thể hiện bên ngoài của họ, họ kỷ niệm lễ phục sinh vào một ngày khác và họ từ chối tuận phục các giám mục.
11. a. 2) Damasus
b. 4) Leo
c. 1) Ambrose
d. 3) Gelasius
23. Câu trả lời của bạn. Chủ nghĩa tu viện đã dạy dỗ hai mức độ đạo đức dành cho hàng giáo phẩm và giới tín đồ; đề xướng một quan điểm về nhị nguyên thuyết về đời sống (xác thịt nghịch với tâm linh); bỏ qua việc khuyến khích đơn vị gia đình.
BÀI HỌC 7: Những Nhà Lãnh Đạo Hội Thánh và Các Giáo Hội Nghị
Lịch sử thường nói về những con người. Chúng ta đã quen thuộc với các vị Hoàng đế, các vị Giáo hoàng, các Tu sĩ và các nhà truyền giáo khác nhau, là những người mà sự đóng góp của họ cho lịch sử Hội Thánh đã kéo dài qua ba thế kỷ, từ năm 312 đến 590. Bây giờ chúng ta sẽ gặp gỡ những con người khác là những người đã phục vụ Hội Thánh bằng nhiều cách khác nhau trong suốt giai đoạn này.
Khi nhìn vào dàn bài bên dưới, bạn hãy chú ý ân tứ mà mỗi vị đã có như là một chi thể trong thân của Đấng Christ. Những người này, mỗi người một ân tứ độc đáo đã đóng góp cho sức sống Hội Thánh Cơ Đốc. Họ đến từ ba lục địa, Châu Phi, Châu Âu và Châu Á. Một số xuất thân từ những gia đình giàu có, một số khác từ giữa vòng những người nghèo. Mỗi người đều cố gắngg hiến cả đời mình vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Mỗi người đã sử dụng ta lâng của mình để kiến tạo Hội Thánh. Những điều đó hoặc có liên quan đến lịch sử Hội Thánh hoặc việc giúp để đề ra giáo lý của Hội Thánh ở tại một trong các kỳ hội đồng.
Chúng ta thật biết ơn những người đã liều bỏ tự do và mạng sống của mình để thuyết phục giáo hội thừa nhận những quan điểm đúng với Thánh Kinh. Chúng ta ngợi khen Đức Chúa Trời vì sự hướng dẫn của Ngài trong những vấn đề thần học mà họ đã đối diện. Chúng ta cầu nguyện để này nay có thêm nhiều người nam người nữ tận hiến chính mình để đem vinh hiển về cho Đức Chúa Trời qua Hội Thánh Ngài.
Những Nhà Lãnh Đạo Nổi Bật
Eusebius: Sử gia
Ambrose: Nhà Quản Trị
Chrysostom: Nhà Truyền Đạo
Theodore người Mopsuestia: Nhà Giải Kinh
Jerome: Dịch Giả
Augustine người Hippo: Nhà Thần Học
Những Cuộc Tranh Luận Về Giáo Lý
Mối Liên Hệ Giữa Đấng Christ với Đức Chúa Trời
Bản Tánh của Đấng Christ
Sự Cứu Rỗi
Khi học xong bài này bạn có thể:
Ù Nhận biết được những sự đóng góp của nhiều nhà lãnh đạo Hội Thánh nổi bật thuộc Hội Thánh đầu thời Trung cổ.
Ù Mô tả được những vấn đề thần học được đề cập ở những kỳ hội đồng khác nhau của giáo hội.
- Nghiên cứu bài học này rồi làm bài tự trắc nghiệm theo những sự chỉ dẫn đã cho trong bài 1.
2. Xem bản đồ trong Bài 4 để xác định quê hương của những nhà lãnh đạo Hội Thánh này.
Các Từ Then Chốt
Phương pháp dùng ngụ ngôn
Ép buộc
Cùng bản thể
Những nguyên tắc đạo đức
Sự chú giải
Nhà giải kinh
Ngữ pháp – lịch sử
Duy nhât thần thuyết
Thuyết của Nestorius (Cảnh giáo phái)
Tà thuyết của Pelagius
Thuật hùng biện
Tính đa tài
NHỮNG NHÀ LÃNH ĐẠO NỔI BẬT
Cũng như những anh hùng Cựu ước là các gương mẫu cho chúng ta ngày nay, những con người tin kính xuyên suốt lịch sử Hội Thánh có thể dạy dỗ chúng ta nhiều điều về mối tương quan của chúng ta với Đức Chúa Trời và vai trò của chúng ta trong Hội Thánh. Chúng ta đã đề cập đến Ambrose và Augustine, bây giờ bạn sẽ làm quen với một số những vị khác.
Eusebius: Sử Gia
Eusebius (260-399) được gọi là ông tổ của lịch sử Hội Thánh. Ông là nhà viết sử đầu tiên chuẩn bị một tập hồ sơ dễ hiểu về những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ của Hội Thánh. Mặc dầu công việc của ông cho thấy những cảm giác và những suy nghĩ của riêng ông nhiều hơn là của nhà viết sử hiện đại, song ông đã sử dụng rất nhiều nguồn tư liệu chính yếu mà ông có thể có được.
Tác phẩm Sử Ký Hội Thánh của ông là một cuộc nghiên cứu có thẩm quyền về Hội Thánh từ thời các sứ đồ cho đến chiến thắng của Constantine như là vị hoàng đế duy nhất của Đế quốc Lamã vào năm 324. Mô tả sự kế tục của các giám mục và các giáo sư Cơ Đốc, những tà giáo, những sự đau khổ của dân Dothái, việc bách hại các Cơ Đốc nhân, những truyền thống về các trước giả của Tân ước và sự chân xác của Kinh Thánh. Cuộc nghiên cứu kỳ cựu có giá trị này chứa đựng những phần trích dẫn dài từ những tác phẩm khác đã bị thất lạc.
Sinh ra từ một dòng dõi thấp kém, Eusebius đã không ngừng học tập. Ông được bổ nhiệm chức vụ giám mục thành Caesasea ở tại Palestine vào năm 314. Chẳng bao lâu ông trở thành một người bạn riêng của hoàng đế Constantine và phục vụ như một vị cố vấn cho cun đình của nhà vua. Eusebius cũng đã đóng góp trong những lãnh vực về quản trị và về thần học. Ông là một tác giả viết về chú giải Kinh Thánh, về những tác phẩm biện giải, những tài liệu thần học, tiểu sử, cũng như lịch sử Hội Thánh. Bài viết về tiểu sử Constantine của ông hết sức tôn tặng ông ta. Sau này chúng ta sẽ thảo luận về vai trò của Eusebius trong cuộc tranh luận Arian ở tại Hội nghị Nicaea.
1. Lịch sử Hội Thánh cho đến khi Phao lô bị bỏ tù ở tại Lamã được bao gồm trong
a) Tác phẩm Sử Ký Hội Thánh
b) Sách Công vụ các sứ đồ
c) Thư Rôma
d) Sách Tin Lành Luca
2. Vì sao tập tiểu sử viết về Constantine lại được coi là quan trọng đối với một vị giám mục như là Eusebius
………………………………………………………………………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………………………………………………………………………….
3. Giải thích giá trị tác phẩm của Eusebius với tư cách một nhà viết sử.
………………………………………………………………………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………………………………………………………………………….
Ambrose: Nhà Quản Trị
Không giống như Eusebius, Ambrose (339-397) được sinh ra trong một gia đình rất giàu có của một viên chức Lamã ở tại Trier, xứ Gaul. Ông được đào tạo để trở thành một nhà luật sư. Trong khi đang phục vụ như người đứng đầu vùng Milan thuộc phía Bắc nước Ý, thì cuộc chiến ngoài đường phố đã nổ ra vì vấn đề của phái Arian (phủ nhận thần tính của Đấng Christ). Ambrose người được dân chúng yêu mến vì tính công bằng và năng lực lãnh đạo của ông, ông đã kêu gọi Hội Thánh giữ trật tự. Đám đông bắt đầu la lớn “Ambrose làm giám mục!”. Mặc dầu là một Cơ Đốc nhân đã tin Chúa trong lòng nhưng ông thậm chí chưa chịu báp têm nữa. Tuy nhiên, với lòng khiêm nhượng và niềm tin của ông cho rằng điều đó hẳn phải là ý muốn của Đức Chúa Trời, tám ngày sau vào năm 374 Ambrose đã trở thành giám mục. Hoạt động đầu tiên của ông là đem tiền của mình cho người nghèo.
Ambrose biết rằng hiểu biết của ông về Kinh Thánh và thần học còn chưa đầy đủ. Ông đã dâng mình cho những nhiệm vụ mới của mình về việc thành lập Hội Thánh ở tại Milan và đã tìm cách học hỏi trong khi dạy dỗ. Ông giảng dạy thường xuyên và đã trở thành một trong những diễn giả vĩ đại nhất ở tại phía Tây thế giới Cơ Đốc. Ông đề xướng các bài hát của hội chúng trong Hội Thánh, giữ gìn đức tin thật và bác bỏ tà giáo, nhất là thuyết Arian.
Tính cách của ông đã được bày tỏ qua việc ông dứt phép thông công hoàng đế Theodosius (xem Bài 6). Đối với Ambrose, đạo đức và thần học không tách rời được, “tay” phải được giữ liên lạc với “đầu”. Bằng việc từ chối ban tiệc thánh cho hoàng đế, Ambrose là người đầu tiên sử dụng chức vụ giáo hội của mình để ép buộc một nhà cầm quyền dân sự
4. Ghép cặp những đóng góp với người đóng góp
1) Ambrose
2) Eusebius
…….a Đã viết lịch sử Hội Thánh đầu tiên
……..b Đột ngột chuyển từ tín đồ sang chức giám mục trong vòng tám ngày
……..c Đã dự phần ở tại hội nghị Nicaea
……..d Đã thành lập Hội Thánh ở tại Milan
……..e Đã nói rằng “tay” phải được giữ liên lạc với “đầu”
5. Đọc RoRm 12:8 và ITi1Tm 5:17, nếu được dùng nhiều bản dịch khác nhau. Những Câu Kinh Thánh ấy nói gì về quyền lãnh đạo?
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
6. Hãy kể một vài phương cách mà những khả năng của Ambrose và việc huấn luyện của ông trong chức vụ quản lý đã giúp đỡ cho Hội Thánh. Viết vào vở của bạn.
Chrysostom: Người Giảng Đạo
Chrysostom (345-407), tên thật của ông là John nhiều khi cũng được gọi là John thành Antioch. Ông được tặng danh hiệu “Chrysostom”, có nghĩa là “cái miệng vàng”, bởi vì lời rao giảng hùng hồn của ông. Khi ông ra đời ở tại thành Antioch thuộc xứ Syri, thành phố có số dân cư mà phân nửa số đó là Cơ Đốc nhân, John được đào tạo theo ngành luật. Sau khi thực hành luật một thời gian, ông đã trở thành một tu sĩ và đã làm hư hại sức khỏe của mình vì sống trong một hang núi. ông được phong làm trợ tế vào năm 381 và là một linh mục vào năm 386, khi được chọn lần sau cùng, ngược lại với những ao ước của mình, làm giám mục thành Constantiople vào năm 398.
Một khi đã bước vào chức vụ, sự giảng dạy của Chrysostom ở tại Antioch đã làm cho ông rất nổi tiếng. ông đặc biệt xuất sắc trong việc giải thích ý nghĩa nguyên văn của Kinh Thánh bằng cách đưa ra sự ứng dụng thuộc linh và sự ứng dụng đạo đức của Kinh Thánh vào đời sống. Ông đã cố gắng để nâng cao mức đạo đức của dân chúng một cách can đảm nhưng thiếu lịch thiệp.
Sau khi được bầu làm giám mục thành Constantiople, ông đã làm cho Nữ hoàng Eudoxia tức giận vì cách ông rao giảng Kinh Thánh và lòng sốt sắng muốn cải cách của ông. Cách sống giản dị của ông đã lên án sự thế tục và xa hoa của triều đình. Ngay cả hàng giáo phẩm địa phương cũng thấy ông quá khắt khe. Ông tin rằng một người chịu từ bỏ mình thì sẽ là một lời chứng quyền năng để thu hút người ta đến với Chúa Cứu Thế hơn cả việc một người chết sống lại nữa.
Nữ hoàng đã buộc tội ông cách sai trái và đã lưu đày ông vào năm 404. Trong khi bị lưu đày, ông tiếp tục phục vụ dân sự mình bằng cách gởi những bức thư khuyên giục và những quà tặng. Khi triều đình đưa ông đi xa hơn nữa, ông đã chết vì những gian nan của cuộc hành trình.
7. Tìm ra mỗi hành động hoặc đặc tính của Chrysostom là 1) nếu bạn thấy điều đó tốt hoặc ích lợi cho một người truyền đạo, hoặc là 2) nếu bạn tìm thấy điều đó có hại
…..a Rao giảng Thánh Kinh
…..b Can đảm trong việc lên án tội lỗi
…..c Thiếu lịch thiệp với người ta
…..d Vững vàng khi đối diện với những lời buộc tội sai trái.
…..e Bài giảng nói đến những vấn đề thuộc linh
8. Theo bạn, đóng góp nổi bật nhất của Chrysostom là gì?
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
Theodore người Mopsuestia: Nhà Giải Kinh
Cũng như Chrysostom, Theodore (350-428) người thành Antioch, cả hai đều biết nhau khi còn là những cậu bé và đã được cùng một vị thầy dạy dỗ. Theodore trở thành giám mục Mopsuestia ở tại Cilicia vào năm 392. Mặc dầu ông rất đa tài trong lãnh vực văn chương, người ta vẫn luôn nhớ nhât về ông như là một nhà diễn dịch Thánh Kinh, một nhà giải kinh.
Nhà giải kinh là người giải thích ý nghĩa của một bản văn, Theodore đã trở thành diễn giả của một phương pháp diễn dịch Thánh Kinh được gọi là ngữ pháp – lịch sử. Phương pháp này tìm cách để hiểu được ngữ pháp và nền tảng lịch sử của bản văn ngõ hầu khám phá được ý của người viết. Chẳng hạn như Theodore là người đầu tiên tìm cách đưa các đoạn Thi thiên vào bối cảnh lịch sử.
Phương pháp giải nghĩa Kinh Thánh mạnh mẽ nhất ở tại Antioch và đã được gọi là Trường Antioch. Nó đối lập với phương pháp dùng ngụ ngôn đã được sự ủng hộ ở tại Trường Alexandria. Bạn còn nhớ Origen là người đã đưa phương pháp này vào Alexandria. Nó nhắm vài việc tìm kiếm một ý nghĩa sâu xa hơn hoặc đang còn ẩn giấu mà chưa tìm được trên bề mặt.
Cả Theodore lẫn Chrysostom cũng là người thuộc Trường Antioch, đều đã có ảnh hưởng đến việc diễn dịch Thánh Kinh trong thời đại của họ. Khi trọng tâm của họ nhắm vào mặt lịch sử và những mối quan tâm về những nguyên tắc đạo đức, họ thường có khuynh hướng nhấn mạnh đến nhân tính của Chúa Cứu Thế. Về sau chúng ta sẽ thấy những quan điểm của Theodore, đặc biệt đã dọn đường cho một cuộc tranh luận lớn về thần tính và nhân tính của Chúa Cứu Thế như thế nào.
9. Định nghĩa chữ “giải kinh” và kể tên hai phương pháp giải kinh.
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
10. Đọc LuLc 19:28 và tìm ra mỗi một cách diễn dịch này 1) nếu cách dùng ngữ pháp kết hợp với lịch sử, 2) Nếu là cách dùng ngụ ngôn
……..a Khi so sánh câu này với câu 1 cùng đoạn, chúng ta thấy Chúa Jesus và các môn đồ của Ngài đang trong hành trình từ Giêricô đến Giêrusalem. Cuộc hành trình đưa họ đến những khu vực cao hơn. Địa hình của vùng này hậu thuẫn cho sự nhận biêt đó.
……..b Qua câu này, chúng ta hiểu được rằng Chúa Jesus đã phân rẽ khỏi các môn đồ của Ngài vì Ngài đã đạt đến những mức độ từng trải thuộc linh.
11. Sự đóng góp của Theodore với tư cách nhà giải kinh là gì?
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
Jerome: Dịch Giả
Jerome (345-419) Sinh ra ở miền Bắc nước Ý và đã được học tập ở tại Lamã. người ta đoán ông đã dành những buổi chiều Chúa nhật của mình để sao chép những lời ghi khắc trên các bức tường của hầm mộ. Ông đã cải đạo vào năm 19 tuổi và đã tận hiến chính mình hoàn toàn cho cuộc sống mới của ông. Ông đã nghiên cứu, học tập tiếng Hylạp, Latinh và Hybálai và ngày càng yêu thích những lối viết cổ điển của người Hylạp và người Lamã. Một ngày kia ông có một khải tượng, trong khải tượng đó, Đấng Christ quở trách ông vì ông đã yêu mến các tác giả ngoại giáo. Sau đó ông đã dành các công trình nghiên cứu cho Thánh KInh.
Vào năm 382, Giám mục Damasus tại Lamã chỉ định Jerome, người đang phục vụ như viên thư ký của mình công việc chuẩn bị một bản dịch Kinh Thánh mới bằng ngôn ngữ thông thường trong thời đó. Hai mươi ba năm sau, vào năm 405 Jerome hoàn tất bản Kinh Thánh bằng tiếng Latinh Thông Dụng (Vulgate), bản Kinh Thánh này đã trở thành bản dịch tiêu chuẩn của Giáo hội Công Giáo Lamã cho đến những thời kỳ hiện đại. Vì việc dịch thuật của mình, ông đã sử dụng bản Tân ước Hylạp và cả bản Cựu ước theo tiếng Hylạp lẫn Hybálai nguyên gốc.
Ngoài việc chuẩn bị cho bản Kinh Thánh Thông dụng (Vulgate), Jerome còn viết các vài giải nghĩa cho hầu hết các sách trong Kinh Thánh. Ông đã viết tiểu sử của nhiều vị lãnh đạo giáo hội và người tuận đạo. ông đã viết những bức thư thường là phản ánh sự mỉa mai, sự châm chọc và công kích cá nhân. Cả lối viết lẫn cách sống của ông đều hậu thuẫn cho kiểu sống khổ hạnh nhắm vào tu viện của ông. Vào năm 386 ông rút về đời sống tu sĩ ở tại Bếtlehem sau cuộc hành trình đến Antioch xứ Syry, Aicập và xứ Thánh.
Sự hiểu biết của ông về các ngôn ngữ thật khó ai bì kịp, và ông đã trở thàng người đứng đầu các học giả Kinh Thánh của giáo hội phía Tây trong thời của mình. Như là một học giả Kinh Thánh đã mô tả về ông, có lẽ ông không chân thật bằng Augustin, không trong sạch và kiêu kỳ về nhân cách cho bằng Ambrose, không có được lẽ phải tuyệt hảo và sự vững chải bằng Chrysostom, không có sự sáng suốt sắc bén tính can đảm trước sau như nhất bằng Theodore xứ Mopsuestia, nhưng ông vượt trội tất cả họ trong việc học hỏi và trong khả năng đa tài (trong bài viết của Eerdman, trang 189).
12. Theo bạn những loại kiến thức nào ngày nay giúp cho một dịch giả trong việc dịch Kinh Thánh ra các ngôn ngữ khác? Viết vào vở ghi chép của bạn.
13. Sự đóng góp chủ yếu của Jerome cho Hội Thánh là gì?
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
14. Ghép cặp người đóng góp với những sự đóng góp
1) Ambrose
2) Chrysostom
3) Eusebius
4) Jerome
5) Theodore
…….a Dịch bản Kinh Thánh Vulgate
…….b Dạy dỗ phương pháp diễn dịch Thánh Kinh theo ngữ pháp và lịch sử
…….c Từ chối các phương pháp cổ điển chỉ nghiên cứu dựa trên Thánh Kinh
…….d Trở thành một người giảng dạy Thánh Kinh vĩ đại và một nhà cải cách
…….e Trở thành giám mục thành Milan
…….f Đã tham dự hội nghị Nicaea
…….g Được tặng danh hiệu “cái miệng vàng”
Augustine thuộc Hippo: Nhà Thần Học
Augustine (354-430) ra đời tại Tagaste thuộc Bắc Phi, cha mẹ ông đều là Cơ Đốc nhân, nhưng trong tuổi thanh xuân, ông đã có những sinh hoạt tội lỗi. Ônng đã sống với một người phụ nữ suốt mưới ba năm mà không kết hôn. Ông thiếu kỷ luật và ưa thích sân khấu, nhưng linh hồn ông vẫn phiền muộn. Ông đã tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời và lẽ thật trong một số những triết lý của cả thuyết Thiện Ác Nhị Nguyên (Manichaeanism), sự khôn ngoan giả tạo chẳng bao lâu đã làm ông chán ghét.
15. Mô tả bản chất sự khôn ngoan và tri thức giữa vòng những người theo thuyết Thiện Ác Nhị Nguyên là nhóm người mà có lẽ Augustine đã chống lại (xem bài 5)
………………………………………………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………………………………………………….
Đang khi ở tại Milan làm công việc, Augustine là giáo sư khoa hùng biện đã bị thu hút bởi việc giảng dạy Kinh Thánh của Ambrose. Một ngày nọ, Augustine đang ở trong khu vườn thì ông nghe có tiếng phán: “Hãy cầm lấy và đọc đi, hãy cầm lấy và đọc đi”. Ông chộp lấy quyển sách các thư tín của Phao lô và mở ra ngay thơ Rôma. Dưới đây là lời làm chứng của ông.
Tôi chộp lấy quyển sách và mở ra và rồi trong sự yên lặng tôi đọc đoạn đầu tiên về những điều mà mắt tôi cảm nhận “Chớ nộp mình vào sự quá độ và say sưa, buông tuồng và bậy bạ, rầy rà và ghen ghét. Nhưng hãy mặc lấy Đức Chúa Jesus Christ, chớ chăm nom về xác thịt mà làm cho phỉ lòng dục nó”. Tôi không ước ao đọc thêm và không càn phải làm như vậy làm chi. Vì ngay lập tức, khi đọc đến cuối câu tôi thấy như là ánh sáng của đức tin đã tràn ngập vào lòng tôi và tất cả những tối tăm của sự ngờ vực đều biến mất”
Đoạn văn trên được trích từ bản tự nguyện của Augustine được gọi là Những Lời Thú Tội. Đó là một khuôn mẫu Cơ Đốc đã ban phước cho những người tin Chúa ở mọi thời đại. Không bao lâu sau sự việc kể trên, ông đã được Ambrose làm báp têm vào năm 387.
16. Đọc RoRm 13:13-14, vì sao bạn cho rằng những câu Kinh Thánh ấy đã chạm đến Augustine sâu xa như vậy?
………………………………………………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………………………………………………….
Vào năm 388, khi Augustine trở về Phi Châu, ông thành lập cộng đồng tu sĩ của mình để nghiên cứu. Không bao lâu sau đó ông được bổ nhiệm chức vụ linh mục vào năm 396 và được chỉ định làm giám mục thành Hippo gần Carthage. Ông đã xử lý khéo léo những vấn đề về chức vụ chăn bầy, về kỷ luật, về việc quản trị, và những vấn đề thần học, trở thành người bảo vệ tính chánh thống của Thiên Chúa Giáo.
Trong bài 5, chúng ta đã đề cập đến đáp ứng của Augustine với thuyết Donatic. Ông xác nhận rằng sự trong sạch của Hội Thánh là dành cho tương lai trong cõi đời đời, chứ không dành cho thời kỳ hiện nay. Ông ủng hộ ý tưởng của Hội Thánh phổ thông bảo rằng mặc dầu các thánh lễ đều có thật bên ngoài giáo hội Công giáo, song chúng không ích lợi gì nếu chúng bị phân rẽ khỏi công việc của Thánh Linh trong thân.
17. Tóm tắt ngắn gọn niềm tin của những người thuộc phái Donatic mà Augustine đã có phản ứng (Bài 5)
………………………………………………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………………………………………………….
18. Nếu sự hiệp nhất của Hội Thánh bị hy sinh liên tục để giữ gìn sự trong sạch của Hội Thánh, thì sẽ dẫn đến điều gì?
………………………………………………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………………………………………………….
Augustine đã viết tác phẩm chính của ông Thành của Đức Chúa Trời để trả lời niềm tin của người ngoại giáo cho rằng sự suy tàn của đế quốc Lamã là do Cơ Đốc giáo gây ra. Các dân ngoại tin rằng vì cớ các Cơ Đốc nhân đã từ bỏ hình tượng của người Lamã, nênn các thần của Lamã đã từ bỏ đế quốc.Sự trả lời của Augustine đã cung ứng một triết lý Cơ Đốc về lịch sử. Ông nói rằng Đức Chúa Trời là Chúa của lịch sử. Ngài đang dời chuyển các biến cố đi đến một kết thúc. Những sự kiện như Rlaric cướp phá thành Lamã vào năm 410 không phải là một chu kỳ vô nghĩa tự nó lập lại mà còn bày tỏ rằng Đức Chúa Trời đang hành động. Augustine nhấn mạnh rằng Đức Chúa Trời nắm phần kết thúc lịch sử trong tay Ngài. Mọi người phải tìm kiếm thành của Đức Chúa Trời (một lối sống thuộc linh) bởi vì Thành của Loài Người (lối sống theo kiểu mẫu Lamã và Hylạp)đang qua đi. Mặc dầu sự suy đồi của một đế quốc lớn, Đức Chúa Trời vẫn đangn làm việc trong Hội Thánh của Ngài bởi ân điển của Ngài.
19. Đọc DaDn 4:17 và 5:18-21, những đoạn Kinh Thánh này có hậu thuẫn cho quan điểm của Augustine liên quan đến lịch sử không?
………………………………………………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………………………………………………….
20. Augustine được người ta nhớ đến vì điều gì?
………………………………………………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………………………………………………….
NHỮNG CUỘC TRANH LUẬN VỀ GIÁO LÝ
Trong giáo hội ở phía Đônng, giai đoạnn từ năm 325 đến 451 đầy dẫy những cuộc tranh cãi về thần tính và bản tánh của Đấng Christ. Bốn kỳ hội nghị chính đã họp để giải quyết các vấn đề này. Tertullian ở phía Tây trước đó lâu đã thiết lập giáo lý chánh thống về Ba ngôi Đức Chúa Trời, vì vậy giáo hội phía Tây không quá bị rắc rối vì những cuộc tranh luận về thần học nầy. Tuy nhiên, một cuộc tranh luận về một vấn đề thực tiễn hơn đã thật sự làm cho giáo hội phía Tây lo lắng, đó là sự thắc mắc về cách nào để một người được cứu. Nhìn chung, giai đoạn này là một thời kỳ quan trọng của việc trình bày thần học Cơ Đốc.
Mối Liên Hệ Giữa Đấng Christ và Đức Chúa Trời
Vào năm 325, có khoảng 300 giám mục phần lớn từ phía Đông, nhóm lại vì một kỳ hội ngị chung ở tại thành Nicaea. Họ đến do sự thỉnh cầu của Hoàng đế Constantine, là người chịu trả tất cả những phí tổn cho họ và đã chủ trì cuộc họp. Constatine, hoàng đế của cả phía Đông cũng như phía Tây, muốn có một giáo hội hiệp nhất để giúp thống nhất Đế quốc.
Cuộc tranh luận về thần học mà hội nghị đối diện có liên quan đến mối liên hệ giữa Đấng Christ với Đức Chúa Trời. Arius một linh mục thuộc Alexandria, đã chống lại quan niệm đa thần về Đức Chúa Trời là điều ông tin rằng Ba ngôi Đức Chúa Trời đã công bố. Ông dạy rằng Đấng Christ không hiện hữu đời đời nhưng Ngài đã được dựng nên. Đấng Christ là một bản thể khác (heteros) với Đức Chúa Cha và lệ thuộc vào Đức Chúa Cha. Arius cho rằng vì cớ sự thuận phục tuyệt đối của Đấng Christ, Ngài đã trở thành một người giống như vị thần. Có lẽ bạn nhìn thấy một vài điểm tương đồng ở đây với những quan điểm của Paul người Samosala (xem bài 5, thuyết Duy nhất thần (Momarchian).
Quan niệm thứ hai của nhà thần học Athanasius, cũng đến từ Alexandria. ông dạy rằng Đấng Christ hiện hữu đời đời với Cha Ngài. Đấng Christ có cùng một bản thể (homoousios) như Cha Ngài. Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con đều đồng đẳng, đồng vĩnh cửu và đồng bản thể. Đối với Athanasius, câu hỏi mấu chốt là: “Liệu Chúa Cứu Thế có cung ứng sự cứu chuộc trọn vẹn được không nếu như Ngài không trọn vẹn bằng Đức Chúa Trời?
Eusebius người Caesarea trình bày một quan điểm thứ ba. Bản tánh nhã nhặn của ông đã cố gắng để tìm được một sự htỏa hiệp. Thoạt đầu ông dựa vào quan điểm của Arius, nhưng khi ông thấy những hậu quả cực đoan của quan điểm ấy, ông đã chuyển sang quan điểm của Athanasius. ông đã trình bày một bản tín điều mà đã trở thành nền tảng của Bảng Tín Điều Nicaea công bố như vậy. Đức Chúa Jesus Christ là “con độc sanh của Đức Chúa Trời, chứ không phải được Đức Chúa Trời tạo dựng, Ngài có cùng một bản thể với Đức Chúa Trời”. Tín lý nầy đã lên án quan điểm của phái Arian.
Mặc dầu Hội nghị Nicaea đã làm sáng tỏ thần tính của Chúa Cứu Thế Jesus, nó cũng đã làm tổn hại đến sự tự do của Đông giáo hội. Giáo hội phía Đông sẽ không bao giờ lại được tự do khỏi thế lực của nhà nước. Ngoài ra, thuyết Arian vẫn là một sự đe dọa đối với tính chánh thống đôi lần về sau này. Đa số các hoàng đế giữa Constantine đến Theodosius đệ I đều thuộc phái Arian. Athanasius, ngườiđã ủng hộ mạnh mẽ Bản Tín Điều Nicaea, đã bị lưu đày năm lần. Thuyết Arian lan truyền đến các bộ tộc ngoại giáo ở phía Đông và về sau đã đe dọa tính chánh thống của Công Giáo ở phía Tây.
21. Bạn có thể nhớ lại thuyết Arian đầu tiên đã lan truyền đến các bộ tộc ngoại giáo như thế nào không?
………………………………………………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………………………………………………….
22. Đọc GiGa 10:30, 38; 12:45; 14:7-10; 17:10. Kết luận của Hội Nghị Nicaea có đồng tình với những đoạn Kinh Thánh trên không?
………………………………………………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………………………………………………….
23. Bảng Tín Điều Nicaea là gì?
………………………………………………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………………………………………………….
Bản Tánh Của Đấng Christ
Một cuộc tranh luận khác về thần tánh và nhân tánh của Đấng Christ. Trường của người Alexandria nhấn mạnh đến thần tánh của Ngài trong khi Trường của người Antioch nhấn mạnh đến nhân tánh của Ngài, Apollinaris (qua đời năm 392) giám mục thành Ladicea, là người bạn của Athanarius và là một thành phần thuộc trường của người Alexandria. Trong phản ứng của ông đối với thuyết Arian, ông mô tả sự Hiện Thân của Đấng Christ là Ngôi Lời của thiên thượng (Logos) thay thế linh hồn, lý trí trong một thân thể loài người. Ông ta giảm thiểu tính người trong Đấng Christ bằng cách tăng cao thần tánh của Ngài. Tại Hội nghị ở Constantiople vào năm 381, do Hoàng đế Theodosius I triệu tập. Apollinaris đã bị lên án và nhân tánh của Đấng Christ được khẳng định cùng với thân vị của Đức Thánh Linh.
Nestorius (381-451) là một học trò của Theodore bfười Mopsuestia,đã phản đối thuyết của Apollianaris và vì vậy đã khởi đầu một cuộc chiến tiếp theo. Nestorius là một tu sĩ học rộng, được bổ nhiệm làm giám mục thành Constantineople vào năm 428. Ông phản đối tước hiệu “Người cưu mang Đức Chúa Trời” (theotokos) được áp đặt cho Mary mẹ Chúa Jesus. Ông cảm thấy từ ngữ ấy nhấn mạnh đến tầm quan trọng của Mary nhiều hơn Kinh Thánh cho phép. Vì vậy, ông đưa ra danh hiệu “Người cưu mang Chúa Cứu Thế” (christotokos) dành cho Mary.
Tại Giáo Hội Nghị Ephesus vào năm 431, do hoàng đế Theodosius đệ II triệu tập, những nhà lãnh đạo giáo hội do Cyril thuộc Alexandria lãnh đạo và những người ganh tị với địa vị của Nestorius ở tại Constantinople đã buộc tội Nestorius theo tà giáo. Họ tố cáo ông đã dạy dỗ rằng hai bản tánh của Chúa Cứu Thế đã bị ép vào nhau trong một sự hiệp nhất máy móc, giống như hai mảnh cạt tông dán keo. Hãy lưu ý những lời bóng gió hai mặt của thuyết Gnostic trong quan điểm này. Đấng Christ là một người cưu mang Đức Chúa Trời, chứ không phải là người-Trời. Ngài chỉ là một con người trọn vẹn, mang ảnh tượng của thiên thượng.
Không rõ là Nestorius có thực sự đã dạy dỗ luận lý này hay không, nhưng vấn đề đã tạo ra một sự bất đồng (kỵ giáo) trong giáo hội. Nestorius bị truất phế ở tại hội nghị, và Đấng Christ được công bố là một Thân vị hiệp nhất “hai bản tánh đằng sau sự hiệp nhất”. Tuy nhiên thuyết của Nestorius về sau đã trở thành có ảnh hưởng hơn trong vùng Batư.
Tuy nhiên một trận chiến khác lại tiếp tục nổ ra khi một tu sĩ lão thành tên là Eutyches tấn công giáo lý về bản thể “hai bổn tánh” của Đấng Christ. Ông cho rằng Đấng Christ chỉ có một thần tánh trong đó nhân tánh đã bị nuốt mất bởi thần tánh. Quan điểm đó được gọi là thuyết Duy nhất thần (Momophysitic) đã dẫn đến Giáo hội nghị Chalcedon vào năm 451. Em gái của hoàng đế Theodosius, người kế vị ông đã triệu tập cuộc họp. Giám mục Leo đệ I (giáo hoàng) của Lamã đã tham dự và đọc tác phẩm Tome của ông,trong đó tuyên bố rằng Đấng Christ có cả nhân tánh trọn vẹn lẫn thần tánh trọn vẹn chư không phải là một nhân cách bị tách rời ra. Đó là sự đóng góp quan trọng đầu tiên của phía Tây vàomột kỳ giáo hội nghị chung.
Giáo hội nghị ban bố một sự định nghĩa mới về Đấng Christ bao gồm Các Bản Tín Điều của năm 325 và năm 381, hai bức thư của Cyril phủ nhận Nestorius, quyển Tome của Leo và một lời xưng nhận mới:
Hết thảy chúng tôi đồng một tiếng nói xưng nhận Cứu Chúa Jesus Christ của chúng tôi là một người và là Con của Đức Chúa Trời , đồng thời trọn vẹn trong Ba ngôi Đức Chúa Trời và trọn vẹn về nhân tánh , là Đức Chúa Trời thật và là người thật , gồm một linh hồn và một thân thể phù hợp , một bản chất với Đức Chúa Cha khi xét về thần tánh của Ngài , cùng bản chất với chúng ta khi xét về nhân tánh của Ngài . Ngài giống như chúng ta trong mọi sự , nhưng trừ ra sự phạm tội , là Con của Đức Chúa Cha trước các thời đại khi xét đến thần tánh của Ngài , cũng như vậy trong những ngày cuối cùng , vì chúng ta và vì sự cứu rỗi của chúng ta được sinh bởi nữ đồng trinh mary , người cưu mang Chúa (thetokos ), khi xét đến nhân tánh của Ngài là một người và cũng là Chúa Cứu Thế , là Đức Chúa Con , là Chúa , là Con độc sanh , được thừa nhận trong hai bổn tánh , không lẫn lộn , không thay đổi , không phân rẽ hoặc không tách biệt , điểm ưu việt của các bổn tánh không hề bị loại bỏ vì sự hợp nhất , mà hơn nữa thuộc tính đặc trưng của mỗi bản tánh đều được giữ gìn ,và hợp nhau để tạo thành một thân vị (Prosopon ) và một thực thể (hypostasis ), không phải như thân thể Đấng Christ bị tách hoặc chia thành hai con người …
Trước bản tín điều này từ lâu, Tertullian đã mô tả Đấng Christ như là có hai bản chất trong một thân vị.
Cuộc tranh luận của những người thuộc pháo Monophysic tiếp tục khi có nhiều người thuộc Đông giáo hội phản bác lời Định Nghĩa ở hội nghị Chalcedon. Aicập và Syry trở thành những thành trì của thuyết Monophysic. Về sau Atmêni cũng vậy. Batư chọn thuyết của Nestorius khi ở dưới triều của hoàng đế Zeno đế quốc đã chấp nhận một thuyết Monophysic (Duy nhất thần) thỏa hiệp để tìm cách đem lại sự thống nhất cho Đông giáo hội.
Hoàng đế Justinian đệ I đã triệu tập Giáo hội nghị Constantinople vào năm 553 để tìm cách khôi phục sự hiệp nhất cho Đông giáo hội. Tuy nhiên, không bao giờ có được sự hiệp nhất. Hội nghị đó và những kỳ hội nghị tiếp theo đào sâu thêm sự bất hòa giữa Đông giáo hội và Tây giáo hội. Chỉ có bảy giáo hội nghị trong tất cả các kỳ hội nghị được cả giáo hội ở phía Đông lẫn Tây thừa nhận. Được kể tên trong bảng sau đây.
- Ghép cặp những quan niệm về Đấng Christ (trái) với những con người (phải)
……..a Đấng Christ là người cưu mang Chúa, không phải người – Trời
……..b Thân thể con người của Đấng Christ được đầy dẫy lời thiên thượng đã thế chỗ cho linh hồn có lý trí.
……..c Nhân tính của Đấng Christ đã bị thần tính của Ngài nuốt mất. - Trong các cuộc tranh luận ở tại các Giáo Hội Nghị năm 381, 431 và 451 thần tính của Đấng Christ không bị phủ nhận. Vậy thì vấn đề là gì?
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
26. Đọc GiGa 5:17-23; 12:45; Phi Pl 2:6-7; Mat Mt 1:18; 3:7;; HeDt 2:14-18 và Cong Cv 3:32. Hãy giải thích việc Đấng Christ có cả thần tính và nhân tính như thế nào. Viết vào vở của bạn.
27. Điều gì dường như phải xảy ra, như đã đựợc bày tỏ bởi những cuộc tranh cãi liên tục ở tại các kỳ hội nghị, khi một sự dạy dỗ tà giáo nổi lên?
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
Sự Cứu Rỗi
Một quan điểm của sự cứu rỗi được biết đến như là thuyết Pelagianic đã bị lên án ở tại Giáo hội nghị thành Ephesus vào năm 431. Mặc dầu thánh Augustine đã qua đời ngay trước kỳ hội nghị này, ông đã dẫn đầu cuộc phản đối sự dạy dỗ này. Thuyết này do Pelagius triển khai (360-420), ông là một tu sĩ người Anh, người đã tuyên bố rằng một tội nhân có thể và phải sửa chính mình cho đúng lại với Đức Chúa Trời. Những người thuộc phái Pelagians dạy rằng tội lỗi là một nhược điểm của xác thịt, chứ không phải là sự băng hoại của ý chí con người. Không có nguyên tội, và mỗi người được dựng nên tự do giống như Ađam vậy. Con người chọn tội lỗi hoặc sự công bình là do ý chí tự do của riêng họ. Theo những người thuộc phái Pelagian, không phạm tội là điều khả thi. Bởi vì mỗi người đều được tự do, các thánh lễ nhất là lễ báp têm cho trẻ con là không cần thiết.
Thánh Augustine đã trả lời rằng nguyên tội là tội kế thừa và là sự băng hoại của Ađam. Bởi vì ý chí con người bị ràng buộc bởi tội lỗi nên con người không thể làm gì để tìm được sự cứu rỗi cho chính mình. Augustine nhấn mạnh rằng Đức Chúa Trời phải thúc đẩy ý chí để chấp nhận ân điển. Ông nói rằng Đức Chúa Trời đã chọn một số người để được cứ và sai Thánh Linh đem ân điển vào trong con người hầu cho họ có thể vâng phục Đức Chúa Trời. Bởi vì sự không phạm tội là điều bất khả thi, Augustine giải thích, nên các thánh lễ là điều cần thiết.
Mặc dầu những quan điểm của Pelagius và Augustine đã từng được tranh luận qua mọi thời đại, nhìn chung Hội Thánh vẫn đứng về phía Augustine nhiều hơn là phía Pelagius (thật đáng chú ý khi ghi nhận ảnh tượng của thuyết Pelagius trong việc sùng bái tà thần ngày nay), Những người theo Tin lành đánh giá đúng sự hiểu biết của Augustine về tội lỗi và ân điển trong khi những người theo Thiên Chúa Giáo đán giá vị trí của ông trong các thánh lễ và giáo hội.
28. Ghép cặp các quan điểm liên quan đến sự cứu rỗi với những con người
1) Augustine
2) Pelagius
3) Không ai cả
…….a Tội lỗi chỉ là một sự yếu đuối của xác thịt
…….b Tội lỗi là sự băng hoại của ý chí loài người
……..c Đức Chúa Trời chọn lựa ai sẽ được cứu
…….d Mỗi người đều tự do chọn lựa phạm tội hoặc chọn sự công bình.
…….e Sự cứu rỗi do ân điển chứ không do việc làm của các thánh lễ
…..f Các thánh lễ cần thiết cho sự cứu rỗi - Đọc RoRm 3:23, quan điểm của Augustine về tội lỗi có theo Kinh Thánh không?
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
30. Cuộc tranh luận gì đã nổi lên do việc Augustine tin rằng Đức Chúa Trời đã lựa chọn những người sẽ được cứu
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
31. Có điều gì sai trật khi chúng ta tin rằng mình có thể cứu lấy mình do những nổ lực riêng của mình?
………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………… - Hãy điền vào BẢNG sơ đồ này, nếu nhớ thuộc lòng càng tốt
Khi chúng ta nhìn lại những con người khác biệt nhau mà mình đã gặp trong bài học này, tôi lại được nhắc nhở về 12:3-8 trong khúc Kinh Thánh này, Phao lô đã dạy dỗ về các ân ban cho của Chúa trong Hội Thánh. Thật vậy chúng ta có những ân tứ khác nhau, tuỳ theo ân điển đã ban cho chúng ta “Theo sự diễn dịch về ngữ pháp và lịch sử của khúc Kinh Thánh này, chúng ta phải khiêm nhường phục vụ thân thể bởi vì chúng ta là chi thể của thân.
Bài Làm Tự Trắc Nghiệm - Ghép cặp các đặc trưng với nhân vật. Sử dụng hai câu trả lời nếu phù hợp
1) Ambrose
2) Augustine
3) Chrysostom
4) Eusebius
5) Jerome
6) Theodore
…..a. Ông không phải là một giám mục
…..b. Họ là bạn khi còn là những cậu bé ở Antioch
…..c. Cả hai đều được huấn luyện thành luật sư
…..d. Ông được cứu và sau đó được Ambrose làm phép báp têm.
…..e. Hai vị này đều có dính líu đến thuyết của Arian
…..f. Ông nổi lên từ giai cấp thấp kém để trở thành một người bạn riêng của một vị hoàng đế.
…..g. Ông làm việc ở tại lục địa Phi Châu
…..h. Họ đều được nuôi dưỡng ở tại Ý - Ghép cặp những người với những ân tứ phù hợp của họ
1) Ambrose
2) Augustine
3) Chrysostom
4) Eusebius
5) Jerome
6) Theodore
…..a. Sử gia
…..b. Người giảng đạo
…..c. Người quản trị
…..d. Dịch giả
…..e. Nhà thần học
…..f. Nhà giải kinh - Ghép cặp những nhân vật với những vùng họ phục vụ với tư cách giám mục
1) Ambrose
2) Augustine
3) Chrysostom
4) Eusebius
5) Thedore
…..a. Caesarea
…..b. Constantinople
…..c. Hippo
…..d. Milan
…..e. Mopsuestia - Ghép cặp nhân vật với sự đóng góp của họ
1) Ambrose
2) Augustine
3) Chrysostom
4) Eusebius
5) Jerome
6) Theodore
…..a. Viết lịch sử Hội Thánh đầu tiên
…..b. Dứt phép thông công một vị hoàng đế vì vấn đề về những nguyên tắc đạo đức.
…..c. Sử dụng những phương pháp diễn dịch Kinh Thánh theo ngữ pháp lịch sử
…..d. Bảo vệ tính chánh thống của Tiên Chúa giáo bằng cách phủ nhận thuyết của Donatic
…..e. Đã dịch bản Kinh Thánh thông dụng theo tiếng Latinh (Vulgate)
…..f. Rao giảng lẽ thật của Thánh Kinh bằng một sự sốt sắng muốn cải cách.
CÂU TRẢ LỜI NGẮN . Hoàn thành những câu sau đây càng ngắn càng tốt
5. Kể ra những vấn đề của bốn kỳ giáo hội nghị đầu tiên
…………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………
6. Lời Định Nghĩa Chalcedon đã phát biểu gì về Đấng Christ
…………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………
7. Thảo luận những khía cạnh theo đúng với Thánh Kinh và không đúng theo Thánh Kinh theo quan điểm của Augustine về vấn đề tội lỗi và sự cứu rỗi.
…………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………
Giải Đáp Các Câu Hỏi Của Bài Học
- Câu trả lời của bạn. Họ tin rằng những người lãnh đạo thuộc linh phải chứng tỏ tính khắt khe về mặt thuộc linh và một chủ nghĩa khổ hạnh để làm cho các thánh lễ trở nên hiệu nghiệm.
1. b) Công vụ các sứ đồ
18. Câu trả lời của bạn. Một số đông đảo các nhóm nhỏ, các nhóm tách biệt không hiệu quả sẽ dẫn đến những con người ai nấy đều tin rằng mình thánh khiết hơn bất cứ nhóm nào khác.
2. Câu trả lời của bạn. Bên trong Đế quốc Lamã, Constantine đã làm cho Cơ Đốc giáo trở thành một tôn giáo hợp pháp. Điều đó ảnh hưởng sâu rộng đến Hội Thánh.
19. Theo Daniel, Đức Chúa Trời hiện nắm quyền kiểm soát các công việc của loài người trong lịch sử.
3. Câu trả lời của bạn. Ông đã cung cấp tập hồ sơ dễ hiểu đầu tiên kèm với vô số các phần trích dẫn được nắm giữ gìn lấy từ các tác phẩm khác không còn tồn tại.
20. Câu trả lời của bạn. Ông là người bảo vệ tính chính thống Công giáo.
4. a. Eusebius
b. 1. Ambrose
c. 2. Eusebius
d. 1. Ambrose
e. 1. Ambrose
21. Uyilas, một Cơ đốc nhân thuộc phái Arian, đã trở thành một nhà truyền giáo cho dân Visigoths và đã dịch Kinh thánh ra ngôn ngữ của họ.
5. Quyền lãnh đạo là một ân tứ Chúa ban cho hội thánh. Những người dẫn dắt hội thánh là đáng kính trọng.
22. Phải, những đoạn Kinh thánh ấy xác minh thần tính của Đấng Christ như Ngài và cha Ngài là một.
6. Câu trả lời của bạn. Ông đem lại trật tự cho giáo hội ở tại Milan, giúp dàn xếp cuộc tranh luận của phái Arian, để xướng việc ca hát của hội chúng, dạy dỗ về đức tin thật, và dẫn dắt trong những vấn đề về luân lý.
23. Đó là một lời tuyên bố chính thống về niềm tin rằng Chúa cứu thế Jesus là “con của Đức Chúa Trời, chứ không phải được Đức Chúa Trời dựng nên, có cùng bản chất với Đức Chúa Cha”. Điều đó đã xác lập thần tính của Đấng Christ.
7. a. 1
b. 1
c. 2
d. 1
e. 1
24. a. 3. Nertorius
b. 1. Apollinaris
c. 2. Eutyches
8. Câu trả lời của bạn. Mặc dầu ông đã thực hiện nhiều điều tốt, song điều nổi bật nhất ông là người lãnh đạo xuất sắc và cảm động được người nghe.
25. Vấn đề là sự hóa thân của Đấng Christ hoặc sự hiệp nhất của thần tánh và nhân tánh của Ngài.
9. Nhà giải Kinh là người chuyên môn trong việc phân tích diễn dịch, và giải thích Kinh thánh. Hai phương pháp là phép dùng ngụ ngôn và phép dùng ngữ pháp lịch sử.
26. Câu trả lời của bạn. Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời có chính bản tánh của Đức Chúa Trời và bình đẳng với Ngài, đã trở thành một con người, được sinh bởi Mari Ngài cũng giống như chúng ta trong mọi sự để làm của lễ chuộc tội lỗi cho chúng ta.
10. a. 1
b. 2
27. Câu trả lời của bạn. Việc không chấp nhận tà giáo như vậy làm cho một quan điểm chống nghịch cực đoan nổi lên và lại trở thành một tà giáo mới.
1. Ông đã triển khai phương pháp diễn dịch Kinh thánh theo ngữ pháp kết hợp với lịch sử và vì vậy nhấn mạnh đến nhân tánh của Chúa Cứu thế.
28. a. 2. Pelagius
b. 1. Augustine
c. 1. Augustine
d. 2. Pelagius
e. 3. Neither one
f. 1. Augustine
12. Câu trả lời của bạn. Hiểu biết về cách thức ngôn ngữ thể hiện, những ngôn ngữ gốc, ngôn ngữ và cách thành ngữ (những cách diễn tả độc đáo) của người ta để có được bản dịch, những phong tục của dân chúng trong các thời đại của Thánh Kinh cũng như của những người tiếp nhận bản dịch.
29. Phải, hết thảy đều đã phạm tội, không một người nào không phạm tội
13. Đó là bản dịch Kinh thánh thông dụng theo tiếng Latin của ông
30. Câu trả lời của bạn, vấn đề tiền định được nêu lên.
14. a. 4. Jerome
b. 5. Theodore
c. 4. Jerome
d. 2. Chrysostom
e. 1. Ambrose
f. 3. Euscbius
g. 2. Chrysostom
31. Câu trả lời của bạn. niềm tin nầy làm giảm đi tầm quan trọng của Đức Chúa Trời trong sự Cứu rỗi, đề cao khả năng của con người để tự cứu mình, và vì vậy đã tôn cao con người và hạ thấp Đức Chúa Trời.
15. Câu trả lời của bạn là thành viên của phong trào Gnostic, họ cảm thấy tri thức của họ về sự khôn ngoan đặc biệt đã làm cho họ xứng đáng trước mặt Đức Chúa Trời.
32. Kiểm tra lại các câu trả lời của bạn với thông tin trên biểu đồ của bài học.
16. Câu trả lời của bạn. Cả sự tìm tòi của ông trong triết học lẫn cuộc đời của ông trong sự vô luân đều được đề cập đến trong những câu Kinh thánh đó. Chúa Cứu thế cũng đã được trình bày như là giải pháp cho những nan đề nầy.