Sống trên đất, các dân tộc không nói cùng một thứ tiếng, không chung một nền văn hóa;không cùng một màu da. Lại nữa, mỗi người một lý tưởng riêng và mục đích sống khác nhau, nhưng cuối cùng đều gặp nhau tại một chỗ, là chỗ mình không muốn! Kinh thánh chép : Cả thảy đều qui vào một chỗ; cả thảy do bụi đất mà ra, cả thảy sẽ trở về bụi đất.

Đức Chúa Trời làm cho sự khôn ngoan loài người ra hư không. Kinh thánh chép: Đức Giêhôva phán: Ý tưởng ta chẳng phải ý tưởng các ngươi, đường lối các ngươi chẳng phải đường lối ta. Vì các từng trời cao hơn đất bao nhiêu, thì đường lối ta cao hơn đường lối các ngươi, ý tưởng ta cao hơn ý tưởng các ngươi cũng bấy nhiêu.

[2]Nếu không tìm kiếm Đức Chúa Trời, để nhận sự ban phước của Ngài, thì mọi công việc tay người làm ra chỉ là hư không. Nói cách khác, nếu khước từ Đức Chúa Trời thì chẳng một ai sống nổi.

Kinh thánh chép : Bầu trời là công việc tay Đức Chúa Trời làm và lời phán của Ngài là luật pháp bảo tồn sự sống và dạy sự khôn ngoan cho loài người: Mặt trời ra từ phương trời nầy, chạy vòng giáp đến phương trời kia; chẳng chi tránh khỏi hơi nóng mặt trời được. Cũng một lẽ ấy, Đức Chúa Trời là sự sáng và là sự sống, không có sự sáng và sự sống thì trái đất trở nên vô hình và trống không, sự mờ tối bao phủ bề mặt trái đất; cây, cỏ, không sống được, thú vật có cũng chết, người hao mòn, trở nên bụi đất, vào trong nước. Kinh thánh lại chép : Hư không của sự hư không, hư không của sự hư không thảy đều hư không.

[3] Quốc gia, dân tộc, quyền cai trị thuộc về Đức Chúa Trời. Kinh thánh chép: Ta sẽ lập chỗ ở ta giữa các ngươi, tâm hồn ta không hề ghê gớm các ngươi đâu. Ta sẽ đi giữa các ngươi, làm Đức Chúa Trời các ngươi, và các ngươi sẽ làm dân ta.

[4] Kinh thánh lại chép: Nầy, đền tạm của Đức Chúa Trời ở giữa loài người! Ngài sẽ ở với chúng, và chúng sẽ làm dân Ngài; chính Đức Chúa Trời sẽ ở với chúng.

[5] Đức Chúa Jêsus thật là đền tạm của Đức Chúa Trời, trong Ngài, mọi người tìm thấy được lòng thương xót của Đức Chúa Trời, sự chân thật đầy dẫy, ơn huệ càng thêm lên, gian ác được xóa bỏ, tội lỗi và tội trọng được tha thứ, bệnh tật được chữa lành, sự sống lại và sống đời đời được tỏ ra, cho mọi người đều thấy, bởi sự sống và sự chết của Đức Chúa Jêsus, nhờ công việc Ngài, mà loài người được trở về cùng Đức Chúa Trời. Nói khác đi, Đức Chúa Trời ở trên trời, Ngài nhìn thấy loài người trong đền tạm thật, và đền tạm đó, thuộc về Đức Chúa Trời. Vả, Đức Chúa Jêsus có phán tỏ tường rằng : Nếu đền tạm (thân thể của Đức Chúa Jêsus) nầy bị phá đi, thì Chúa sẽ dựng lại trong ba ngày. Quả thật, Đức Chúa Jêsus, là Vua, nối nghiệp dòng vua Đavít, và là Đấng xây lại đền thờ Giêrusalem, không bởi tay người, nhưng bởi tay Đức Chúa Trời.

Kinh thánh chép: Đức Chúa Trời là Đấng có thật và sống đời đời, trong Ngài có sự sáng, sự sáng nầy có vinh quang đầy dẫy và trường tồn, không phải sự sáng của mặt trời, mặt trăng hay các vì sao; cũng không phải ánh sáng của đèn, vì mọi sự nầy rồi cũng qua đi, trong chốc lát, khi có tiếng kèn thổi. Sự sáng thật là sự sáng có sắc trắng chói lòa, không hề tàn lụi, từ nơi Đức Chúa Trời hiện ra.

Kinh thánh chép: Sự sáng ở thế gian, và thế gian đã làm nên bởi Ngài; nhưng thế gian chẳng từng nhìn biết Ngài. Ngài đã đến trong xứ mình (Bếtlêhem), song dân mình (Giuđa) chẳng hề nhận lấy (thì có như vậy). Nhưng hễ ai nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài, là kẻ chẳng phải sanh bởi khí huyết hay tình dục, hoặc bởi ý người, nhưng sanh bởi Đức Chúa Trời vậy.

[6] Kinh thánh lại chép: Đức Chúa Jêsus là sự sáng của thế gian; người nào theo Ngài, chẳng đi trong nơi tối tăm, nhưng có ánh sáng của sự sống.

[7] Kinh thánh lại chép nữa: Đức Chúa Jêsus là sự sống lại và sự sống; kẻ nào tin Ngài thì sẽ sống, mặc dầu đã chết rồi. Còn ai sống và tin Ngài thì không hề chết. [8]Đức Chúa Trời yêu thương loài người, Ngài phân chia đất cho muôn dân, cũng vì lẽ ấy, Đức Chúa Trời ban quyền cai trị cho các nước, và chính Ngài đã phù hộ để mọi công việc tay Ngài làm ra được còn từ đời nầy qua đời kia.

Kinh thánh chép: Ta biết rằng kẻ kính sợ trước mặt Đức Chúa Trời, sau rốt ắt được phước. Nhưng kẻ ác sẽ chẳng được phước; cũng sẽ không được sống lâu, vì đời nó giống như bóng qua; ấy tại nó không kính sợ trước mặt Đức Chúa Trời.

[9]  Kinh thánh lại chép: Một người trong hội kẻ sống (thuộc về Đức Chúa Jêsus), còn có sự trông mong; vì con chó sống (loài người) hơn là sư tử chết (các thần tối tăm).

[10] Nói cách khác, loài người dù là cát bụi, sẽ được sống lại và sống đời đời, còn giá trị hơn ma quỉ, dù giàu có cả thế gian, và sống đời đời, nhưng chẳng được chi, chẳng hưởng chi, cuối cùng chúng đều bị quăng vào Hồ lửa. Đức Chúa Jêsus là điềm lạ, dấu lạ, bánh ăn nước uống của mọi thần linh và xác thịt. Đức Chúa Jêsus sanh ra bởi mẹ mình, là một nữ đồng trinh, tên Mari, đã hứa gả cùng Giôsép, là tôi tớ của Đức Giêhôva, thuộc dòng vua Đavít. Mari thọ thai bởi lời phán của Đức Chúa Trời, để lời Kinh thánh đã chép được ứng nghiệm, rằng: Nầy ngươi sẽ chịu thai và sanh một Con trai mà đặt tên là JÊSUS. Con trai ấy sẽ nên tôn trọng, được xưng là Con của Đấng Rất Cao; và Chúa, là Đức Chúa Trời sẽ ban cho Ngài ngôi Đavít, là tổ phụ Ngài. Ngài sẽ trị vì đời đời nhà Giacốp, nước Ngài vô cùng. Ngày Chúa ra đời, có những dấu lạ kèm theo, một ngôi sao sáng từ trời hiện ra trên đất, tại Bếtlêhem, để loan tin ngày, giờ và nơi chốn Ngài ra đời. Rồi thì có rất nhiều thiên binh, thiên sứ, cũng hiện ra, ca mừng Chúa Cứu Thế giáng sinh làm người trần thế, được bọc khăn nằm trong máng cỏ. Đức Chúa Trời khiến các nhà thông thái đến Bếtlêhem, tìm Đức Chúa Jêsus, làm cho vua Hêrốt, đang cai trị dân Giuđa, phải bối rối, và căm giận trong lòng, vua bèn nhóm dân Giuđa lại, tra hỏi các thầy tế lễ cả và thầy thông giáo trong dân, rằng : Đấng Chhrist phải sanh tại đâu? Người ta thưa rằng : Tại Bếtlêhem, xứ Giuđa, để ứng nghiệm lời Kinh thánh đã chép rằng : Hỡi Bếtlêhem, đất Giuđa! Vì từ ngươi sẽ ra một tướng, là Đấng chăn dân Ysơraên, tức dân ta. Vua Hêrốt bèn họp kín cùng bầy tôi mình, và ra lịnh giết hết thảy con trai trong đất Giuđa từ hai tuổi xấp xuống. Ấy là để ứng nghiệm lời tiên tri về sự lập lại Ysơraên, và Giao ước mới, rằng : Đức Giêhôva phán như vầy : Tại Rama (Giuđa) có tiếng than thở, khóc lóc đắng cay. Rachên khóc con cái mình, mà không chịu yên ủi về con cái mình, vì chúng không còn nữa! Kinh thánh lại chép: Đức Giêhôva phán cùng Rachên như vầy : Hãy nín tiếng ngươi đừng than khóc, mắt ngươi đừng sa lụy, vì công việc của ngươi sẽ được thưởng; chúng nó sẽ trở về từ xứ kẻ thù, Đức Giêhôva phán vậy. Đức Giêhôva phán: Sẽ có sự trông mong cho kỳ sau rốt của ngươi; con cái ngươi sẽ trở về bờ cõi mình.

[11] Đức Chúa Trời khiến tôi tớ Ngài là Giôsép, đem Mari và Con trai Ngài qua xứ Êdíptô, và cứ ở đó, cho đến ngày vua Hêrốt chết. Đức Chúa Trời lại hiện ra cùng Giôsép, sai đem Con trai Ngài và Mari, mẹ Ngài, trở về xứ Ysơraên, nhưng nghe nói con vua Hêrốt nối ngôi, Giôsép sợ, nên đem Đức Chúa Jêsus và mẹ Ngài vào xứ Galilê, ở trong thành Naxarét. Đức Chúa Jêsus càng lớn càng đẹp lòng Đức Chúa Trời và người ta. Sau khi, Giôsép qua đời, Đức Chúa Jêsus rời Naxarét, đến cùng Giăng Báptít để chịu người làm phép Báptêm. Lúc bấy giờ, Giăng đang giảng dạy cho dân Ysơraên, về phép ăn năn để được tha tội, tại sông Giôđanh. Khi Đức Chúa Jêsus ra khỏi nước, Giăng liền thấy có sự sáng, và nghe tiếng nói từ trời bao phủ Đức Chúa Jêsus, mà rằng : Nầy là Con yêu dấu của ta đẹp lòng ta mọi đàng. Giăng liền nói cùng dân Ysơraên, đương có mặt tại sông Giôđanh, rằng: Chính Đức Chúa Jêsus là Con Đức Chúa Trời. Đức thánh Linh giục Đức Chúa Jêsus vào đồng vắng để chịu sự cám dỗ. Ngài thắng sự cám dỗ của ma quỉ. Từ đó, Ngài giảng dạy cho dân, về nước Đức Chúa Trời đã mở ra cho muôn dân trên đất. Ai muốn vào nước Đức Chúa Trời, phải tin rằng Đức Chúa Jêsus là cái cửa, nghĩa là Đấng có chìa khóa nhà Đavít, Đấng mở cửa thiên đàng.

[12] Đức Chúa Jêsus giảng dạy luật pháp của Đức Chúa Trời, về sự tha thứ và sự yêu thương, tức là sự công bằng và sự nhận biết Đức Chúa Trời là trên hết mọi sự. Bấy giờ, người ta hỏi Ngài rằng : Chúng tôi phải làm chi cho được công việc của Đức Chúa Trời? Đức Chúa Jêsus đáp rằng : Các ngươi tin Đấng mà Đức Chúa Trời đã sai đến, ấy đó là công việc Ngài. Người ta lại hỏi Đức Chúa Jêsus rằng : Thế thì thầy làm phép lạ gì, để cho chúng tôi thấy và tin? Thầy làm công việc gì? Tổ phụ loài người đã ăn mana trong đồng vắng, theo như lời chép rằng: Ngài đã ban cho họ bánh ăn từ trên trời xuống. Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, Môise chưa hề cho các ngươi bánh từ trên trời đâu; nhưng Cha ta ban cho các ngươi bánh thật, là bánh từ trên trời xuống. Ngài phán tiếp : Bánh Đức Chúa Trời là bánh từ trên trời giáng xuống, ban sự sống cho thế gian. Ngài phán rõ ràng hơn: Ta là bánh của sự sống; ai đến cùng ta chẳng hề đói, và ai tin ta chẳng hề khát. Vì ta từ trên trời xuống, để làm theo ý muốn của Đấng đã sai ta đến, là hễ sự gì Ngài đã ban cho ta, thì ta chớ làm mất, nhưng ta phải làm cho sống lại nơi ngày sau rốt. Đây là ý muốn của Đức Chúa Trời, phàm ai nhìn nhận và tin Đức Chúa Con, thì được sự sống đời đời; còn Đức Chúa Jêsus, Ngài sẽ làm cho kẻ ấy sống lại nơi ngày sau rốt. Đức Chúa Jêsus lại phán quả quyết rằng : Quả thật, quả thật ta nói cùng các ngươi, hễ ai tin thì được sự sống đời đời. Ta là bánh của sự sống. Ta là bánh hằng sống từ trên trời xuống; nếu ai ăn (để vào trong tâm trí, thấu xuống tận trái tim) bánh ấy thì sẽ sống vô cùng; và bánh mà ta sẽ ban cho vì sự sống của thế gian tức là thịt ta. Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu các ngươi không ăn thịt của Đức Chúa Con, cùng không uống huyết Ngài, thì chẳng có sự sống trong các ngươi đâu. Vì ta thật là đồ ăn, huyết ta thật là đồ uống. Người nào ăn thịt ta và uống huyết ta, thì ở trong ta, và ta ở trong người.

[13] Vả, lúc Đức Chúa Jêsus giảng dạy điều nầy, thì Ngài nói tiên tri về sự chết của Ngài là như thế nào. Khi mọi việc xảy ra y như điều Ngài đã nói, bấy giờ, người ta nhận biết rằng : Chúa Jêsus vì mọi người mà phó sự sống, để chuộc cho Đức Chúa Trời mọi kẻ sanh ra bởi Ađam, sống dưới ánh mặt trời, được sống lại, nhờ sự chết của Ngài. Đức Chúa Jêsus mang ảnh tượng một người, Ngài cũng có ảnh tượng của Đức Chúa Trời. Qua lời nói và việc làm của Đức Chúa Jêsus, đều tỏ ra quyền phép của Đức Chúa Trời. Khi Ngài phán thì việc liền có : Ngài phán với gió bão : Hãy ngừng thổi trên biển, thì biển trở nên yên lặng. Ngài phán với những người bệnh theo Ngài rằng: Tội ngươi đã được tha, bệnh ngươi đã được chữa, thì sự vui mừng liền đến, bệnh được lành, bất cứ là bệnh gì, lâu hay mới đều được lành cả. Ngài phán: Hỡi người chết hãy trở lại, người chết sống lại. Hễ ai tin Ngài, xin Ngài bất cứ điều chi, thì được điều ấy, nhưng cho những ai không tin danh Ngài, thì chỉ thấy sự lo lắng, phiền muộn, đau đớn cứ tăng thêm lên, sự chết dần dần hiện ra, như thể rong rêu, lôi kéo người ấy về một nơi sâu thẳm của đất! Đức Chúa Jêsus, vì lòng nhân từ Ngài, Ngài chịu chết thay cho mọi người, gánh hết mọi nỗi lo lắng ưu phiền, bệnh tật, cùng mọi sự rủa sả đã chép trong sách luật pháp của Môise, và cả sự chết, sự chôn, Âm phủ, thay cho mọi người. Khi mọi việc ấy đã xong rồi, Đức Chúa Trời khiến Đức Chúa Jêsus sống lại, và hiện ra trong vòng những người tin theo Ngài, Chúa ở cùng và dạy họ giữ điều phải giữ, cho đến chừng nào Đức Thánh Linh từ trời, tuôn đổ xuống trên mỗi người, thì họ sẽ từ nơi đó đi ra, để làm chứng về Đức Chúa Jêsus sống lại, và hiện nay đang ngồi bên hữu Đức Chúa Trời để cầu nguyện cho dân sự trên đất. Ai là kẻ không tin, ai là kẻ sẽ phản Ngài? Loài người sanh ra và sống, được nuôi dưỡng mình bằng lời phán của Đức Giêhôva. Nếu Đức Giêhôva không có phán: Phải có một khoảng không ở giữa trời và đất, thì người ta chẳng có môi trường sống và nước để uống.Nếu Đức Giêhôva chẳng có phán: Đất phải sanh cây cỏ, cây trái kết trái, thì chẳng có hạt giống cho người gieo, chẳng có cơm bánh cho người ăn. Nếu Đức Giêhôva chẳng có phán: Đất phải sanh các vật sống như: chim trời, cá biển, thú rừng và súc vật tùy theo loại, thì người ta không có thịt để ăn. Nếu Đức Giêhôva chẳng lấy tay Ngài mà nặn nên hình người, và Ngài chẳng hà sinh khí Ngài vào người bằng đất đó, thì người ta chẳng khác gì hình tượng, không có sự sáng và sự sống ở trong.Thế nhưng, khi người ta trở nên giàu có rồi, cất nhà tốt mình để ở rồi, thì người ta thường dâng của lễ mình cho những hình tượng do tay người thợ khéo làm nên, rồi lấy bạc vàng đắp cho những hình tượng ấy, chọc giận Đức Giêhôva mà không biết. Kinh thánh chép: Ta đã xem thấy mọi việc làm ra dưới mặt trời; kìa thảy đều hư không, theo luồng gió thổi. Vật chi đã cong vẹo (các thần tối tăm) không thể ngay lại được, và vật chi thiếu (không có đức tin nơi Đức Chúa Trời) không thể đếm được.

[14] Giàu mà không được hưởng, và chết chẳng được chôn đều là hư không. Các thần tối tăm, như con rồng và các sứ của nó, đều là kẻ cai quản đời nầy, được Đức Chúa Trời ban ơn dư dật, trở nên giàu có, đến nỗi mọi điều lòng họ ước ao, chẳng thiếu gì hết. Kinh thánh lại chép : Người lại sanh trăm con trai, và sống nhiều năm cho đến cao niên trường thọ, mà lòng chẳng được vui và chết chẳng được chôn. Tại sao? Bởi vì, trong đám họ, chẳng ai tạ ơn Đức Chúa Trời, lại còn lên mình kiêu ngạo, coi Đức Chúa Trời như không có, và bắt người khác phải thờ lạy chính họ nữa.Đức Chúa Jêsus đã đến, Ngài đến để làm chứng về đám họ rằng : Họ là ác!Các thần tối tăm căm giận và âm mưu làm phản cùng Đức Chúa Trời, qua nhiều cách kín nhiệm, khi thì hiện ra rõ hình ma quỉ, khi thì ám vào lòng người, qua mội miệng loài người, qua cánh tay loài người mà mưu sự ác. Chúng nó nói với Ngài rằng : Ví bằng ngươi sấp mình xuống trước mặt ta mà thờ lạy, thì ta sẽ cho ngươi mọi sự của thế gian và sự giàu có của nó. Đức Chúa Jêsus phán cùng nó rằng : Chính ngươi phải thờ lạy Chúa là Đức Chúa Trời ngươi, và chỉ hầu việc một mình Ngài mà thôi. Nó tức tối, liền bỏ Ngài mà đi. Rồi, chúng nó đi tìm Giuđa Íchcariốt, là một môn đồ của Đức Chúa Jêsus, có lòng tham, lấy trộm túi tiền người ta dấu trong mình, chúng nó khiến Giuđa Íchcariốt làm kẻ lừa thầy phản bạn, đến cùng các thầy tế lễ cả, tra tay bắt và giết Ngài đi. Chúng nó lại trà trộn trong đám dân đông, nhân dịp xử án Đức Chúa Jêsus, mà đồng mưu giết Ngài cách kín dấu, không ai biết. Nhưng, Kinh thánh tỏ điều nầy ra qua Tin lành, giảng ra cho mọi người về : Đấng Christ và Bêlian (tức là ma quỉ). Kinh thánh chép : Chớ mang ách chung với kẻ chẳng tin (ma quỉ). Bởi vì công bình với gian ác có hội hiệp nhau được chăng? Đấng Christ và Bêlian nào có hòa hiệp chi, hay là kẻ tin có phần gì với kẻ chẳng tin? Có thể nào hiệp đền thờ Đức Chúa Trời lại với hình tượng tà thần? Vì chúng ta là đền thờ của Đức Chúa Trời hằng sống, như Đức Chúa Trời đã phán rằng: Ta sẽ ở và đi lại giữa họ; ta sẽ làm Đức Chúa Trời của họ, và họ làm dân ta. Bởi vậy, Chúa phán rằng : Hãy ra khỏi giữa chúng nó, hãy phân rẽ ra khỏi chúng nó, đừng đá động đến đồ ô uế, thì ta sẽ tiếp nhận ngươi: Ta sẽ làm Cha các ngươi, các ngươi làm con trai con gái ta, Chúa toàn năng phán vậy. Y như lời Kinh thánh đã chép trước rằng: Đức Giêhôva phán như vầy: Ta sẽ bảo phương bắc rằng: Hãy buông ra! Và bảo phương nam rằng: Chớ cầm lại làm chi! Hãy đem các con trai ta về từ nơi xa, dem các con gái ta về từ nơi đầu cùng đất, tức là những kẻ xưng bằng tên ta (thuộc dòng dõi Ađam, Ađam là con trai của Đức Chúa Trời), ta đã dựng nên họ vì vinh quang ta; ta đã tạo thành và đã làm nên họ.

[15] Kinh thánh chép về số phận của ma quỉ như vầy: Đức Giêhôva phán: Khi ta mài lưỡi sáng của gươm ta, và tay ta vầm sự đoán xét, thì ta sẽ báo thù kẻ cừu địch ta, cùng đối trả những kẻ nào ghét ta.

[16] Giàu hay nghèo bởi tay Đức Chúa Trời. Kinh thánh lại chép: Kìa có một người mà Đức Chúa Trời ban cho sự giàu có, của cải và sang trọng, đến nỗi mọi sự lòng người ước ao, chẳng thiếu chi hết; nhưng Đức Chúa Trời không cho người có thể ăn lấy (các thần tối tăm hưởng ơn dư dật mà không tạ ơn Đức Chúa Trời, thì bị cất đi khỏi đất, bị giam vào ngục tối, cho đến ngày phán xét, bị Đức Chúa Trời ném vào Hổ lửa), bèn là một người khác được ăn (Đức Chúa Jêsus, là Sự sáng, tức là thần ngôn ngoan thông sáng của Đức Chúa Trời, vì lòng nhân đức Ngài, kính sợ Đức Chúa Trời và thương yêu loài người, nên Đức Chúa Trời ban cho Ngài tất cả mọi sự giàu có trên đất). Kinh thánh chép về Đức Chúa Jêsus rằng: Vì Chúa lấy phước lành mà đón rước người; đội trên đầu người mão triều bằng vàng ròng. Người cầu xin cùng Chúa sự sống, chúa bèn ban cho người, đến đỗi ban cho người ngày lâu dài đời đời vô cùng. Chúa mặc cho người sự sang trọng oai nghi. Chúa đặt người làm sự phước đến mãi mãi. Khiến người đầy dẫy sự vui mừng trước mặt Chúa.

[17] Hễ dân nào chạy theo thần tối tăm, thì trở nên hư không; hễ dân nào tìm kiếm Đức Chúa Trời, thì đến cùng Đức Chúa Jêsus và trở nên con cái của Đức Chúa Trời, hưởng cơ nghiệp đời nầy và còn lâu dài cho đến đời sau. Âm phủ là gì?  Kinh thánh chép: Ta tìm thấy một điều cay đắng hơn sự chết, ấy là Âm phủ như thể một người đàn bà có lòng giống như lưới bẫy, tay tợ như dây lòi tói: Ai ở đẹp lòng Đức Chúa Trời sẽ thoát khỏi nó; còn kẻ có tội bị nó vấn lấy.

[18] Sống trong Âm phủ ba ngày ba đêm? Đức Chúa Jêsus sống trong Âm phủ ba ngày ba đêm. Cảnh trạng Âm phủ giống như một bụng cá lớn, Giôna cho biết vì sao phải vào Âm phủ, và làm thế nào để ra khỏi đó. Kinh thánh chép: Giôna được Đức Chúa Trời sai đến Ninive, vì dân và súc vật trong thành đó không phân biệt được tay hữu và tay tả. Đức Chúa Trời phán cùng Giôna như vầy : Hãy đi đến thành lớn Ninive, và kêu la nghịch cùng nó; vì tội ác chúng nó lên thấu trước mặt ta. Giôna chẳng muốn làm theo lời, mà miệng Đức Chúa Trời đã phán ra, và muốn lánh khỏi mặt Giêhôva Đức Chúa Trời, nên đi qua xứ khác, bằng đường thủy. Đức Chúa Trời biết đường Giôna đi, nên Ngài sắm cho Giôna một con cá lớn để nuốt Giôna; Giôna ở trong bụng cá lớn ấy ba ngày ba đêm. Giôna từ trong bụng cá cầu nguyện Giêhôva Đức Chúa Trời mình, mà rằng: Tôi gặp hoạn nạn, kêu cầu Đức Giêhôva, thì Ngài đã trả lời cho tôi. Từ trong bụng Âm phủ, tôi kêu la, thì Ngài đã nghe tiếng tôi. Ngài đã quăng tôi trong vực sâu, nơi đáy biển, và dòng nước lớn bao phủ lấy tôi. Hết thảy những sóng lượn và những ba đào của Ngài đều trải qua trên tôi. Tôi đã nói rằng: Tôi đã bị ném khỏi trước mắt Ngài; dầu vậy, tôi còn nhìn lên đền thánh của Ngài. Nước bao phủ lấy tôi, cho đến linh hồn tôi; vực sâu vây lấy tôi tư bề; rong rêu vấn vít đầu tôi. Tôi đã xuống đến chân nền các núi; đất đã khóa và niêm phong trên tôi đời đời.Hỡi Giêhôva Đức Chúa Trời tôi, nhưng Ngài đã đem mạng sống tôi lên khỏi hầm hố! Khi linh hồn tôi mòn mỏi trong tôi, thì tôi nhớ đến Đức Giêhôva, và lời cầu nguyện của tôi đạt đến Ngài, vào đền thánh Ngài. Những kẻ chăm sự hư không giả dối, thì lìa bỏ sự thương xót Đức Chúa Trời dành cho mình. Nhưng tôi, tôi sẽ dùng tiếng cảm tạ mà dâng của lễ cho Ngài; tôi sẽ trả sự tôi đã hứa nguyện. Sự cứu đến từ Đức Giêhôva! Đức Giêhôva bèn phán cùng con cá, và nó mửa Giôna ra trên đất khô.

[19] Đức Chúa Trời ban sự ăn năn cho các vua và các dân trên đất. Kinh thánh chép: Lại có lời Đức Giêhôva phán cùng Giôna lần thứ hai mà rằng: Ngươi khá chỗi dậy! hãy đi đến thành lớn Ninive, và rao cho nó  lời ta đã dạy cho ngươi. Giôna làm theo mạng lịnh của Đức Giêhôva, đi ba ngày đường thì đến thành Ninive, khi vào trong thành rồi, đi thêm một ngày đường nữa, thì rao giảng và nói rằng: Còn bốn mươi ngày nữa, Ninive sẽ đổ xuống! Nghe Giôna giảng lời Đức Chúa Trời, dân thành Ninive tin Đức Chúa Trời. Dân thành ấy rao ra sự kiêng ăn và dẹp mọi sự đẹp đẽ mình, mặc bao gai, từ những người rất lớn đến những kẻ rất nhỏ. Tin ấy đồn đến vua Ninive, vua đứng dậy khỏi ngai, lột áo bào mình ra, quấn bao gai và ngồi trong tro bụi. Đoạn, vua truyền lịnh nầy ra trong thành Ninive, như là luật đặc biệt của vua cùng các kẻ tôn trưởng : Không luận người ta hay thú vật, không luận bầy bò hay bầy chiên, đều chớ nếm chi hết. Không được để cho nó ăn, cũng không uống nước; nhưng người ta và thú vật đều phải quấn bao gai. Mọi người khá ra sức kêu cầu cùng Đức Chúa Trời; phải, ai nấy khá bỏ đường lối xấu mình và việc hung dữ của tay mình. Ai biết rằng hoặc Đức Chúa Trời sẽ đổi ý, và Ngài xây khỏi cơn nóng giận mình, hầu cho chúng ta khỏi chết hay sao? Bấy giờ Đức Chúa Trời thấy việc họ làm đều đã xây bỏ đường lối xấu của mình; Đức Chúa Trời nguôi cơn giận về sự họa mà Ngài đã phán sẽ làm cho họ, và Ngài không làm sự đó.

[20] Làm sao phân biệt được tay hữu và tay tả? Kinh thánh thường diễn tả quyền phép của Đức Chúa Trời bằng bàn tay; tay hữu của Chúa, tượng trưng cho sự ban ơn lành, phước hạnh và sự bình an; bàn tay tả của Ngài là roi, là sự sửa phạt, trên các dân bạn nghịch, tức là các thần trên đất và các dân không có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, và là dân không làm theo mạng lịnh của Ngài. Muốn phân biệt tay hữu và tay tả, phải nhờ lời của Ngài dạy cho. Đức Giêhôva phán : Nầy, ta để hòn đá sống tại Siôn, hễ ai tin đến đá ấy, chẳng bị hổ thẹn. Đức Chúa Jêsus là Hòn đá sáng và sống, tại Siôn. Như vậy, Đức Giêhôva chẳng có phán rằng: Ngài để một hòn đá tại La Mec  xa xôi nào đó! Ai tin hòn đá đen nầy chắc hẳn lìa xa Đức Chúa Trời rồi! Hoặc là, Kinh thánh chép: Đức Giêhôva dựng lên loài người như hình Ngài và theo tượng Ngài, Đức Chúa Jêsus là hình và tượng của Đức Chúa Trời. Khi Ngài bị đóng đinh trên cây gỗ thì Ngài kêu la thảm thiết. Kinh thánh lại chép : Hình tượng của các dân bằng vàng, bằng bạc, đá, gỗ… là do tay thợ khéo làm ra, có tai, mắt, mũi, miệng, tay, chân, nhưng không hơi thở ở trong, nên chẳng ban phước và chẳng giáng họa.Đức Giêhôva có dạy như vầy: Trước mặt ta ngươi chớ có các thần khác, chớ làm tượng chạm cho mình, cho những vật trên trời cao kia hay dưới đất thấp; ngươi chớ quỳ lạy trước các hình tượng đó. Rõ ràng lắm, Đức Giêhôva chẳng có dạy rằng: Các ngươi phải dâng của lễ cho các thần khác. Nếu ai làm điều đó, là chọc giận Đức Chúa Trời. Hễ ai chọc giận Ngài, thì đã lìa xa Đức Chúa Trời rồi. Kinh thánh lại chép: Đức Giêhôva là sự sống và sự sáng, hễ ai lìa xa Ngài, thì có sống, cũng như đã chết! Đức Chúa Trời tạo dựng nên bậc cha mẹ. Kinh thánh chép : Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi, hầu cho ngươi được sống lâu trên đất mà Giêhôva Đức Chúa trời ngươi ban cho.

[21] Nếu cha mẹ phạm tội, con cái trở nên kẻ đổ máu người ra trên đất, và đất bị hủy diệt, trong thời Nôê, đã xảy ra. Nếu cha mẹ kính sợ Đức Chúa Trời, đi theo đường Ngài chỉ cho họ đi, con cái sinh ra hưởng phước lành và sự bình an. Nếu cha mẹ là Thánh, con cái trở nên thánh, được sống lại và sống đời đời trong ngày sau rốt.Ađam và Êva, đã sai lạc con đường mà Chúa đã dạy cho họ phải giữ, không quản trị được mọi công việc mà tay Đức Chúa Trời đã dựng nên, sanh con đứa dữ giết đứa lành. Sự sai lạc của cha mẹ đầu tiên, khiến họ phải xa lìa nhà Đức Chúa Trời, sống trong cảng ham muốn của đời, bị dục vọng cai trị, lao tâm khổ trí cho đến ngày người trở về đất.Cha mẹ biết cầu khẩn danh Đức Chúa Trời: Sem; Sem sanh Nôê; Nôê sanh Ápraham; Ápraham sanh Ysác; Ysác sanh Giacốp; Giacốp sanh Giuđa và anh em người. Giuđa sanh Đavít, Đavít sanh Giôsép là chồng Mari, Mari là người sanh Đức Chúa Jêsus, gọi là Christ. Đức Chúa Jêsus, vì Ngài là thánh, sanh ra làm người sống trong thế gian, Ngài không phạm một tội lỗi gì, trong môi miệng cho đến việc làm thảy đều sáng danh Đức Chúa Trời trên đất. Nhưng Ngài bằng lòng chịu chết thay cho mọi người trước mặt Đức Chúa Trời, để xóa bỏ sự tội và sự chết đã hiện ra trong dòng dõi của Ađam. Vì, Kinh thánh chép về dòng dõi Ađam rằng: Đức Giêhôva từ trên trời ngó xuống các con loài người, đặng xem thử có ai khôn ngoan, tìm kiếm Đức Chúa Trời chăng. Chúng nó thay thảy đều bội nghịch, cùng nhau trở nên ô uế; chẳng có ai làm điều lành, dầu một người cũng không.

[22]  Đức Chúa Jêsus, bởi sự chết Ngài chịu, Đức Chúa Trời đã khiến Ngài sống lại, và trở nên nguồn sự sống cho những ai đặt lòng tin nơi danh của Ngài. Ngài hiện ra cho nhiều người được thấy, và đi đến Galilê trước các môn đồ Ngài, y như Ngài đã phán trước. Tại Galilê, Đức Chúa Jêsus phán cùng môn đồ như vầy: Hết cả quyền phép từ trên trời dưới đất đã giao cho ta. Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh Đức Cha, Đức Con và Đức Thánh Linh mà làm phép Báptêm cho họ, và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà ta đã truyền cho các ngươi. Và nầy, ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế. Ngài lại phán tiếp : Ai tin và chịu phép Báptêm sẽ được sống lại trong đời nầy và sống đời đời nơi ngày sau rốt; nhưng ai chẳng tin sẽ bị đoán phạt. Vậy, những kẻ tin sẽ được các dấu lạ nầy : Lấy danh ta mà trừ quỉ; dùng tiếng mới mà nói; bắt rắn trong tay; nếu uống giống chi độc, cũng chẳng hại gì; hễ đặt tay trên kẻ đau thì kẻ đau sẽ lành. Đức Chúa Jêsus phán như vậy rồi thì được đem lên trời, ngồi bên hữu Đức Chúa Trời. Khi Đức Chúa Jêsus về trời rồi, thì Ngài sai Đức Thánh Linh giáng thế, ở cùng các môn đồ Ngài, đương trông đợi và cầu nguyện không thôi tại một lầu cao trong đền thờ Giêrusalem. Kể từ ngày đó, Đức thánh Linh ở cùng các môn đồ trong mọi sự giảng dạy kèm theo phép lạ để cứu người tin nơi danh Đức Chúa Jêsus, đều được sự sống lại, hưởng bình an thật, đầy dẫy ơn lành và phước hạnh trong thời hiện tại, và được thông công cùng Đức Chúa Trời và Đức Chúa Jêsus cùng các đấng thánh của Ngài ở trên trời.Cha mẹ là Thánh, gồm có Đức Chúa Trời, Đức Chúa Jêsus và Đấng Thánh Linh. Hễ ai tin Đức Chúa Jêsus, thì được sanh lại bởi Đức Thánh Linh, và trở nên con cái của Đức Chúa Trời, được sống trong nơi ngự của Đức Chúa Trời, trong này sau rốt. Nếu Chúa ở trên trời, người được lên cùng Ngài; nếu Chúa ngự trên đất, thì người ở cùng. Kinh thánh chép: Bốn phương thế gian sẽ nhớ và trở lại cùng Đức Giêhôva, các họ hàng muôn dân sẽ thờ lạy trước mặt Ngài. Vì nước thuộc về Đức Giêhôva, Ngài cai trị trên muôn dân. Hết thảy người giàu có thế gian cũng sẽ ăn và thờ lạy; mọi kẻ trở lại bụi đất, và những kẻ không thế bảo tồn mạng sống mình, sẽ quỳ xuống trước mặt Ngài. Một dòng dõi sẽ hầu việc Ngài; Người ta sẽ kể dòng dõi ấy là dòng dõi của Chúa. Dòng dõi ấy sẽ đến rao truyền sự công bình của Ngài, thuật cho các dân tộc sẽ sanh ra rằng Đức Giêhôva đã làm những việc ấy.

[23] Kinh thánh lại chép: Ấy là sự mắt chưa thấy, tai chưa nghe, và lòng người chưa nghĩ đến. Nhưng Đức Chúa Trời đã sắm sẵn điều ấy cho những kẻ yêu mến Đức Chúa Trời. Tức là những ai được trở nên con cái của Đức Chúa Trời.

[24] Thiên đàng đã mất nay được thấy lại. Kinh thánh chép: Thiên sứ chỉ cho tôi xem sông nước sự sống, trong như lưu ly, từ ngôi Đức Chúa Trời và Đức Chúa Jêsus chảy ra. Ở giữa phố thành và trên hai bờ sông có cây sự sống trổ mười hai mùa, mỗi tháng một lần ra trái; và những lá cây đó dùng để chữa lành cho các dân. Chẳng còn có sự nguyền rủa nữa; ngôi của Đức Chúa Trời và của Đức Chúa Jêsus sẽ ở trong thành; và các tôi tớ Ngài sẽ hầu hạ Ngài. Người ta sẽ được thấy mặt Chúa, và vương miện con Đức Chúa Trời sẽ ở trên trán mình. Đêm không còn có nữa, và người ta sẽ không cần đến ánh sáng đèn hay ánh sáng mặt trời, vì Chúa là Đức Chúa Trời sẽ soi sáng cho; và họ sẽ trị vì đời đời. [25] Cầu xin Tin lành của Chúa được biết đến giữa các dân các nước. Vì, quốc gia, dân tộc và  quyền bính cai trị đều thuộc về Chúa.Cầu xin danh Chúa được ngợi khen mãi mãi, và người ta nói rằng: Giêhôva Đức Chúa Trời vạn quân là Đức Chúa Trời của Ysơraên, và Ngài cũng là Đức Chúa Trời của mọi dân tộc. Cầu xin trời mới, đất mới và Giêrusalem mới, được đến. Ý Chúa được nên ở đất như trời.  Cầu xin Tin lành của Chúa được sáng soi trong lòng mọi người, hầu cho ai nấy đều được sống, được sống lại và sống đời đời.Cầu xin Chúa ban phước dư dật trên những người cha, hầu cho vợ và con cái của họ đều được vui mừng, xin Chúa phó sự thắng thế gian trong tay mọi người, và xin Chúa hủy phá kẻ đã hủy phá thế gian nầy. Cầu xin Chúa ban cho chúng ta được hưởng một mùa hè thật phước hạnh, trong sự nghỉ ngơi, ăn uống và vui mừng với những người thân thương nhất trong gia đình như trong vòng bạn.

V. M. Nhung