Từ khi tôi còn bé tôi đã có những thắc mắc tại sao linh hồn người chết có thể về ăn đồ cúng. Tại sao khi còn sống con người bất lực, nhưng khi chết linh thiêng có thể về phù hộ hoặc gieo họa cho bà con thân quyến?

Những câu hỏi siêu hình thúc đẫy tôi vào chùa tu học. Trong chùa có có bàn thờ một vị Bồ Tát, có nét mặt dữ tợn, cái lưỡi của ông dài hơn lưỡi rắn. Tên ông là Tiêu Diện Ðại Sĩ. Theo giáo lý nhà chùa thì đây là vị Thần cai trị các linh hồn vất vưỡng (Cô hồn) đói rách không ai cúng kiến thức ăn. Mỗi buổi kinh chiều nhà chùa cúng một bát cháo đặt ngay trên bàn thờ ông Tiêu Diện và tụng bài kinh Thí Thực. Niềm tin nầy rất thích hợp với người bình dân Việt-Nam. Tôi đã học Giáo Lý Nhà Phật để tìm giải đáp, nhưng càng học càng thêm nhiều thắc mắc  khó giải thích hơn. Ví dụ có chùa chuyên làm bùa Quang Minh và bùa Hải Hội để giải oan cho những linh hồn ”nghiệp nặng” chết nhằm vào ”ngày xấu”. Ngày nay nhiều chùa bói toán, xin quẻ.  Là tu sĩ, tôi phải học nhiều giới cấm. Càng nhiều giới cấm người ta dễ phạm giới, vì thế có một giới cấm cấp dưới tò mò tìm hiểu giới luật của cấp trên. Mỗi sáng ai quên đọc câu thần chú trước khi đặt chân xuống đất là mắc tội sát sinh vì đã giết chết côn trùng trong ngày đó. Hoặc quên đọc thần chú là mắc tội ăn thịt 8 vạn bốn ngàn con vi khuẩn trong nước. Cạo đầu mà quên đọc thần chú cũng có tội. Ở chùa ăn nhiều rau. Lắm lần tôi thấy sâu chết trong rau muống luộc.  Luộc những nồi rau to tướng như thế là giết rất nhiều sinh vật, thế nhưng không ai học câu thần chú  luộc rau cả.  Ngày xưa Ðức Phật cấm nam tu sĩ đứng tiểu tiện, nhưng sau đó dân chúng tưởng rằng tất cả đệ tử của Phật là phụ nữ. Ðức Phật phải hủy giới cấm ấy. Vì giới luật nhà tu quá chi li, nhưng không ai giữ  được trọn vẹn giới luật nào cả. Chẳng ai muốn tiết lộ sự phạm giới của mình. Ðáng tiếc Ðạo Phật không nhìn nhận một cách minh bạch về vấn đề tội lỗi.  Ðể phá chấp, người tu sĩ cấp cao học về ý nghĩa của sự phi giới và cao hơn nữa là vô phi giới.

Mỗi khi ăn cơm người tu hành đọc ba câu thề nguyện mà không ai tin mình có thể làm được.  Thậm chí người ta đọc quen đến nỗi không cần một ý niệm tha thiết chân thành.

Một là từ bỏ việc ác (nguyện đọan nhất thiết ác)

Hai là làm trọn tất cả việc lành (nguyện tu nhất thiết thiện).

Ba là hóa độ chúng sinh (thể độ nhất thiết chúng sinh).

Khi học đến giáo lý cao siêu, tôi được dạy rằng không có tội lỗi, không ai tha tội cho ai, không có địa ngục, không có niết bàn, không ai dựng nên vũ trụ vạn vật màchỉ do tâm con người tạo ra. Giáo lý nhà Phật không tin có Ðấng Tạo Hóa, không tin nguyên nhân khởi đầu mà chỉ tin vào ly nhân duyên điệp trùng tiếp nối khiến vạn vật lưu chuyển như là đang hiện hữu. Vạn vật vốn là vô thủy vô chung, không có một cái gì vĩnh cửu (vô thường).  Tâm con người chấp vào đâu thì có vào đó, chứ thật ra chẳng có cái gì hiện hữu thật sự. Ngay cả tôi đây không phải là tôi. Phần đông tín đồ Phật Giáo không hiểu giáo lý của Phật mà  chỉ nghe theo các vị tu sĩ.

Ðạo Phật cho rằng đời là bể khổ. Có tám nguyên nhân chính gây ra đau khổ: 1)Sinh khổ. 2) Lão khổ. 3) Bịnh khổ. 4)Tử khổ. 5)Thương yêu mà không được gần nhau là khổ (ái biệt ly khổ). 6)Ghét nhau mà phải gần nhau là khổ (oán tăng hội khổ). 7)Ước muốn không thành là khổ (cầu bất đắc khổ). 8) Thân thể và tâm hồn mất thăng bằng là khổ (ngũ ấm thạnh khổ). Giáo lý quan trọng đầu tiên của đạo Phật là sự đau khổ. Muốn diệt đau khổ thì phải diệt sanh sản (diệt dục), diệt già nua, (diệt lão), diệt bịnh tật, diệt sự chết. Nhưng chưa đủ, còn phải diệt thương yêu (ái nghiệp) diệt ham muốn (tham), diệt giận hờn (sân si), muốn diệt khổ tuyệt đối thì phải diệt luôn cả ý muốn thành Phật (muốn thành Phật là tham!) Ðạo Phật tin vào luật báo quả thiện ác công minh, cũng không giải thích luật nhân quả công minh ấy từ đâu mà ra.

Tôi cần mẫn học từng bậc, đến khi tôi tốt nghiệp trường đào tạo tăng tài Phật Học Viện Nha Trang và Ðại Học Vạn Hạnh, tôi tự cảm thấy mình đi tu như thế vẫn không tiêu diệt hết tội lỗi trong tôi.  Chưa kịp tiêu diệt tội lỗi cũ tội mới ló mặt ra trong tôi. Nếu có địa ngục tôi phải vào trước nhất.  Một ông thầy tu phải biết che  dấu tội lỗi để được các đệ tử thờ lạy khi mình còn sống. Người tu hành khi đã lên tới bậc Ðại Ðức thì khó hoàn tục vì được hưởng sự kính trọng quá cao và hưởng nhiều ưu đãi quá dễ.

Tự xét lấy mình, tôi đã từng thất vọng trong con đường tu. Ðã có khi tôi cần tìm một cái chết tự thiêu để giải quyết ngõ bí trong tâm hồn mình. Sau khi đọc hai quyễn sách của nhà văn Hermann Hesse Nasizund Goldmund và Siddhata, tôi liều lĩnh cởi bỏ chiếc áo thầy tu để ra đời tìm hiểu những ý nghĩa mà tôi thắc mắc. Nhưng sau 15 năm quen sống trong chiếc áo tu hành, tôi trở thành một thanh niên khờ khạo, vụng về không thăng bằng và thất bại. Năm 1973, sau khi thôi tu chừng một năm, tôi cưới vợ, nhưng gia đình tôi đổ vỡ rất sớm. Tôi trở lại tu theo pháp môn thiền định. Pháp môn nầy đã giúp tôi có bản lĩnh để nhìn biết một số phản ứng nội tâm khi thân thể mình ngồi tỉnh lặng. Nhờ 2 năm tu thiền trước 30-4-1975, tôi đã tiếp tục ngồi thiền rất chăm chỉ trong nhà tù cộng sản. Pháp môn thiền định đã giúp tôi gặp Phật, gặp Chúa, gặp ông Gandi, và gặp vô số loài vật cũng như bà con thân thuộc của mình trong quá khứ mù mờ. Tôi nghĩ, họ là kiếp trước của tôi. Phái thiền Pháp Hoa Hội Thượng gọi đó là mật pháp. Nhiều bạn thiền của tôi cũng đạt đến kết quả như thế. Cũng có người cho đó là hư tưởng trong tạng thức của mình. Càng ngồi thiền siêng năng, tôi càng muốn rời bỏ thế gian để tìm hiểu thế giới sau khi chết. Ý nghĩ tự tử càng dễ xuất hiện trong tôi. Nhưng trên thực tế, lắm khi tôi sống buông thả tệ hại!

Sau khi ra khỏi nhà tù cộng sản, tôi lập lại gia đình, nhưng không ngờ gặp nhiều điều ngang trái khác! Thế là gia đình tôi lại đổ vỡ một lần nữa (Xin quý vị đọc hai quyển sách: Ai chết cho ai? Và Từ Áo Cà Sa Ðến Thập Tự Giá để thấy rõ những chi tiết nầy hơn).

Tôi đã đi tu, đã tình nguyện tự thiêu, đã ra đời lấy vợ, tu thiền và thất bại. Một cuộc đời rắc rối đầy rủi ro như thế chẳng có gì đáng sống nếu nhìn theo con mắt phàm tục. Nhưng trong hoàn cảnh bi đát ấy, tôi đã gặp được nhà thơ Bùi Giáng khuyên đọc Kinh Thánh. Lúc đầu tôi không có thiện cảm với Kinh Thánh. Nhưng lạ thay, càng đọc Kinh Thánh, tôi càng thấy lời dạy của Chúa là rõ ràng và thực tế hơn giáo lý Ðạo Phật. Kinh Thánh nói về sự sáng tạo vũ trụ và Ðấng Sáng Tạo. Trong khi đạo Phật dạy rằng không ai dựng nên vũ trụ mênh mông vô lượng nầy cả mà chỉ do tâm con người chấp có nên mới có. Kinh Thánh dạy rằng Chúa là tình yêu trong khi đạo Phật dạy rằng yêu là một sự cảm thọ, là ái nghiệp. Chúa dạy về tội lỗi, nguồn gốc của tội lỗi, quyền năng tha tội và cách giải quyết vấn đề tội lỗi tận gốc để chiến thắng điều ác. Nhưng đạo Phật dạy rằng tội bổn tánh không (tội lỗi vốn là không), không ai tha tội cho ai, con người tự mình thắp đuốc lên mà đi. Chúa dạy phải hiếu kính cha mẹ khi họ còn sống với mình, còn đạo Phật dạy cắt  ái từ sở  thân (lìa bỏ tình thương cha mẹ) như Ðức Thích ca đã từ bỏ cha mẹ, vợ con, nhưng  lại thờ cúng cha mẹ sau khi họ đã qua đời. Chúa dạy chúng ta lấy thân thể mình để làm đền thờ Ngài, nhưng Phật Giáo dạy sự thờ phượng bằng bàn thờ, đá, xi măng. Chúa dạy con người dâng lời cầu nguyện để tương giao với Chúa, nhưng Phật Giáo dạy dâng nhang đèn, trầm hương lễ vật lên hình tượng để bày tỏ lòng thành. Chúa mặc khải ơn cứu rổi để giải phóng con người ra khỏi bản tính tội lỗi trước, rồi sẽ học làm điều lành sau; nhưng Phật Giáo dạy rằng con người phải giữ giới cấm để tự làm cho mình trở nên toàn thiện không cần ơn thiên thượng. Trên thực tế con người dễ làm điều ác khó làm điều lành.  Như Sứ Ðồ Phao lô đã từng kinh nghiệm và nói rằng:” Vả, chúng ta biết luật pháp là thiêng liêng; nhưng tôi là tánh xác thịt đã bị bán cho tội lỗi. Vì tôi không hiểu điều mình làm: tôi chẳng làm điều mình muốn, nhưng làm điều mình ghét.  Song   nếu tôi làm điều mình chẳng muốn, thì bởi đó nhận biết luật pháp là tốt lành.  Bấy giờ chẳng phải tôi làm điều đó nữa, nhưng ấy là tội lỗi ở trong tôi.  Vả, tôi biết điều lành chẳng ở trong tôi đâu, nghĩa là trong xác thịt tôi, bởi tôi có ý muốn làm điều lành, nhưng không có quyền làm trọn; vì tôi không làm điều lành mình muốn, nhưng làm điều dữ mình không muốn. Ví bằng tôi làm điều mình không muốn, ấy chẳng phải là tôi làm điều đó nữa, nhưng là tội lỗi ở trong tôi vậy. Vậy tôi thấy có luật nầy trong tôi: khi tôi muốn làm điều lành, thì điều dữ dính dấp theo tôi. …Khốn nạn cho tôi! Ai sẽ cứu tôi thoát khỏi thân thể hay chết nầy?  Cảm tạ Ðức Chúa Trời, nhờ “Ðức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta!” (Rô ma 7:13-22,24-25).

Có những tu sĩ thực tâm tu niệm, họ từng cấm khẩu hàng tháng trời, cũng có vị tự nhập thất giam mình hàng tháng trong phòng kín để tu thiền hoặc tụng kinh. Nhưng bản chất tội lỗi trong con nguời không  thể xóa sạch bằng hành vi hãm mình khổ hạnh. Lắm khi vì hãm mình khổ hạnh, người tu sĩ vấp phải những tội lỗi ”kỳ cục”  hơn người ngoài. Trong giới tu sĩ Phật Giáo có nhiều người tốt, nhưng người tốt chưa hẳn là người chiến thắng tội lỗi của mình.

Khi đọc Kinh Thánh tôi thấy lời Chúa dạy rõ ràng và đơn giản. Nếu mình thật lòng thực hành là có thể thấy kết quả đúng hay sai. Lúc đầu tôi chỉ làm thử; nếu đúng, tôi tin. Nếu sai, tôi bỏ Kinh Thánh. Sau khi tôi đã thử cầu nguyện âm thầm một mình theo lời dạy của Chúa trong sách Giăng 13:13-14 : ”Các ngươi gọi ta bằng Thầy bằng Chúa; các ngươi nói phải, vì ta thật vậy.  Vậy, nếu ta là Chúa là Thầy, mà đã rửa chơn cho các ngươi, thì các ngươi cũng nên rửa chơn lẫn cho nhau.” Chúa đã ban cho tôi những phép lạ thật kỳ diệu và thật là cụ thể, bước đầu tiên tôi không dám tin lắm, nhưng nhiều lần cầu nguyện có kết quả, tôi phải tin (xin xem thêm 2 quyển sách nói trên).

Ngày nay tôi sống trong Ðức Tin của Chúa, sự cầu nguyện và kết quả của sự cầu nguyện chẳng khác gì mình thụ hưởng thức ăn điều độ và hít thở khí trời trong lành ắt là phải có sức khỏe tốt cho mình mà thôi. Sau khi trở về trong Chúa, tôi được thay đổi bản tánh tội lỗi để được mặc vào bản tánh mới tự do, nhẹ nhàng, khoan khoái thật là tuyệt vời. Chúa cho tôi đắc thắng tội lỗi mà không kiêu ngạo và Chúa cũng cho tôi thấy cái vực thẳm giữa sự thánh khiết và tội lỗi là rất là mỏng manh, nhưng hai thế giới cách xa nhau lắm. Mỗi ngày sống trong Chúa quả thật là quý báu. Dù bị thế gian bắt bớ, tôi vẫn là người hạnh phúc và yêu quý mọi người, không thất vọng, không nghi ngờ, tôi vui thỏa từng giờ, từng ngày. Tôi tiếp sống với Lời Chúa và nhận được những kết quả vô cùng lớn lao. Khi cầu nguyện tâm hồn tôi bình tịnh, tỉnh táo hơn ngồi thiền nhiều lắm. Bản tánh nhơn từ thánh khiết của Chúa được bồi đáp thêm trong con người mới của tôi mỗi ngày rất cụ thể. Ðây là những kết quả quý báu để làm bằng chứng về nước thiên đàng mai sau như Lời Chúa hứa

Ðối chiếu Phật Học và Thánh Kinh, nhất là kinh nghiệm tu hành theo đạo Phật, với kết quả kỳ diệu trong Ðức Tin Chúa ban cho tôi, tôi nhận thấy rằng thái tử Tất Ðạt Ða là một người thiết tha tìm con đường giải thoát sau khi nhìn thấy cuộc đời toàn là đau khổ. Với bản tánh của một người Ấn Ðộ,  Thái tử đã suy nghiệm sâu xa về sự huân tập đức tánh xấu trong con người, nhưng thái tử chưa thấu đạt  nguyên nhân của sự huân tập ấy là từ tội lỗi của con người như Kinh Thánh đã nói rõ. Vì  thế thái tử cho đó là nghiệp lực thay vì tội lỗi. Tiếc thay thời đó Kinh Thánh Cựu Ước chưa được truyền qua Ấn Ðộ mặc dầu thái tử đã học nhiều tôn giáo khác nhau. Là một người thông minh vượt bực, lại có lương tâm nhạy bén, thái tử Tất Ðạt Ða không thỏa mãn với những luồng tư tưởng và tôn giáo nặng thần bí theo văn hóa Ấn Ðộ. Sáu năm đầu sau khi từ bỏ hoàng cung để quyết chí tu học, thái tử đã thất bại với pháp môn khổ hạnh đầu đà. Rốt cuộc thái tử Tất Ðạt Ða cương quyết ngồi thiền bên bờ sông Niliên. Ngài thề rằng:”Nếu ta không tìm ra chân lý, thà chết không đứng dậy khỏi nơi nầy.”Khi ngồi thiền, thái tử đã thấy những hiện tượng nội tại như ngày nay nhiều người ngồi thiền cũng đã thấy. Từ đó Ngài nghĩ rằng mình đã thành Phật. (Ngày nay một số người ngồi thiền cũng tự xưng mình đã thành Phật). Giáo Lý của Ngài bị các thế hệ đến sau thêm thắt quá nhiều khiến thêm mâu thuẩn. Ví dụ Phật Giáo Việt Nam có quá nhiều điều không bà con với Phật Giáo Ấn Ðộ. Các Bộ kinh của Phật chỉ được truyền khẩu qua nhiều thế kỷ trước khi được ghi lại bằng trí nhớ của môn đệ. Ðó là lý do khiến kinh Phật bị thất bản và bị thêm thắt quá nhiều.

Sau hơn 20 năm theo Chúa, mọi thắc mắc của tôi đã được Kinh Thánh giải đáp cả ba mặt: Thân thể, tâm trí, và tâm linh. Tôi đã nhận được nhiều phép lạ lớn lao. Bản thân tôi được Ngài chữa lành bịnh đau bao tử, bịnh trầm uất. Con trai tôi đã bị sốt xuất huyết tắt thở,  được Chúa chữa lành khi tôi đang cầu nguyện. Những thói hư tật xấu của tôi được loại bỏ để được thay vào bằng những đức tính mới mẽ nhân từ thánh khiết từ Ðức Chúa Trời mà tôi không cần phải khổ công tu luyện như trước đây. Giải đáp lớn nhất đối với tôi là sự hiện diện của Chúa Thánh Linh trong con người vốn tầm thường yếu đuối của tôi. Chúa đã cho tôi thấy nhiều giấc mơ tuyệt diệu nhưng riêng tư và thực tế đến nỗi khó tả cho ai biết. Chúa đã cho tôi kinh ngiệm sống để biết Kinh Thánh là Lời Hằng Sống trong năng quyền của Ðức Thánh Linh chứ không phải là lý thuyết suông. Ðể mạc khải ơn tha thứ, trước hết Ngài đã tha tội cho tôi. Ðể mạc khải tình yêu thiêng liêng, trước   hết Ngài đã yêu tôi và gánh chịu tội lỗi cho tôi trên thập tự giá. Tình yêu của Chúa là một bản tánh thực tế đầy hiệu năng chứ không là một sự diễn tả bằng lời nói và chữ viết.

Kinh Thánh nói: ”Tiền công tội lỗi là sự chết; nhưng sự ban cho của Ðức Chúa Trời là sự sống đời đời  trong Ðức Chúa Jesus Christ, Chúa chúng ta”(Rôma 6:23). Chúa dạy rằng tội lỗi di truyền trong dòng dõi loài người sau khi tổ tiên của chúng ta phạm tội. Chúng ta có hể tu và sữa cái phong cách bề ngoài cho tốt đẹp, nhưng bản tính tội lỗi bên trong thì không thể nào tự sữa chữa được. Vì thế Ðức Chúa Trời ban Con Một của Ngài đến thế gian để gánh cái ách tội lỗi cho chúng ta. Ðiều đáng tiếc còn nhiều người đang khước từ ơn cứu rỗi của Chúa. Chúa dạy tội lỗi  của loài người bắt đầu từ thái độ khước từ Ðấng tạo dựng nên mình. Nghĩa là không vâng lời Ngài và tiếp tục sống trong lầm lạc với những ý tưởng hư không và lòng ngu dốt đầy tối tăm.  Ví dụ nguồn gốc của tội bất hiếu là từ bỏ cha mẹ. Khi một người con đã bất hiếu với cha mẹ,  nay muốn trả hiếu, thì trước tiên là trở về xin lỗi cha mẹ, sau đó mới bắt đầu báo hiếu theo ý muốn của cha mẹ. Hành động trở về xin lỗi cha mẹ là một hành động khởi đầu của sự hiếu thảo của đứa con. Cũng thế nếu chúng ta muốn giải quyết nguồn gốc tội lỗi  thì phải quay về với Ðấng dựng nên chúng ta. Ngài có quyền xét đóan chúng ta và cũng có quyền tha thứ cho chúng ta. Ngài là Ðức Chúa Trời. Ngài tạo dựng vũ trụ và cả chúng ta. Ngài ban cho chúng ta Ảnh Tượng của Ngài, nhưng  chúng ta phạm tội nên đã đánh mất Ảnh Tượng thiêng liêng của Ngài. Kinh Thánh nói: ”Vì mọi người đều đã phạm tội, nên đã thiếu mất sự vinh hiển của Ðức Chúa Trời” (Rôma 3:23).

Ðức Chúa Trời yêu con người dù con người đã phạm tội. Nhưng Ðức Chúa Trời không chấp nhận tội lỗi, nên Ngài đã lập  kế hoạch giải cứu con người ra khỏi tội lỗi. Giải pháp của Ngài có hai phần chính. Tha thứ tất cả những vi phạm đã qua và dẫn dắt chúng ta vào sự sống mới để đắc thắng tội lỗi. Tất cả giải pháp của Ngài đều được đặt trong Con Một của Ngài là Chúa Cứu Thế Jesus Christ. Chúa Jesus Christ xác nhận rằng: ”Vì Ðức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy, không bị hư mất mà được sự sống đời đời.” (Giăng 3:16). Ðức Chúa Jesus Christ đã hiện đến thế gian suốt hơn 2000 năm qua.  Ngài đã chết trên thập tự giá để sự  chết cứu chuộc của Ngài là nơi mà chúng ta đem tội lỗi mình đến để đặt vào bằng tấm lòng ăn năn và tin cậy. Ai tin vào Ơn Cứu Chuộc của Ngài thì tội lỗi của người ấy bị đóng đinh chết với Ngài trên thập tự giá. Nhưng Ngài là Ðấng đến từ Ðức Chúa Trời nên Ðức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết  sống lại.  Quyền năng sống lại của Ngài đem đến cho kẻ tin Ngài sức sống phục sinh mới mẽ. Nhờ sức sống phục sinh mới mẽ nầy, con người chúng ta nhận biết Ảnh Tượng của Ðức Chúa Cha trong chúng ta vốn đã bị tội lỗi ngăn cách. Ảnh Tượng của Ngài được tái dựng trong  chúng ta để chúng ta tái sỡ hữu địa vị làm con cái của Ðức Chúa Trời.

Nếu chúng ta không trở về với Chúa, nghĩa là chúng ta để tội lỗi cai trị chúng ta và tội lỗi tiếp tục ngăn cách tình Cha Con của Ðức Chúa Trời và chúng ta. Nếu khước từ ơn tha tội của Chúa, chúng ta chắc chắn sẽ vào địa ngục sau khi chết phần xác. Ví dụ một đứa con từ bỏ cha mẹ dù nó ăn chay trọn đời vẫn cứ mang tội bất hiếu.  Một người từ chối Ðấng dựng nên mình, dù có tự đặt ra cho mình bao nhiêu giới tu vẫn là một người có tội với Trời. Trước hết phải quay lòng về với Chúa. Sau đó mới nói tới chữ tu theo sự dắt dẫn của Ngài.

 

*** Sau khi đọc bài này, nếu bạn thấy lòng mình cảm động và được thúc giục tin nhận Chúa Cứu Thế Giê-su, thì xin bạn thành tâm cúi đầu cầu nguyện với Chúa như sau:

” Kính lạy Đấng Tạo Hóa, con biết con là người có tội. Con đã xa cách Chúa, sống theo đường lối và ý riêng mình. Hiện con đang đi trên đường dẫn đến sự hình phạt đời đời. Tạ ơn Chúa, vì Ngài đã đến trong thế gian, chịu chết thay cho con để đền tội con trên thập tự giá. Giờ đây, con quyết tin nhận Chúa làm Cứu Chúa của con, xin Chúa tha tội cho con và tiếp nhận con làm con cái yêu dấu của Ngài. Con cầu nguyện nhân danh Chúa Cứu Giê-su, Amen.”

www.vietchristian.com/niengiam/