SỐNG LÀ ĐỂ YÊU THƯƠNG
Con cái không những chỉ là các sản phẩm do bậc cha mẹ tạo ra, mà còn là các hình ảnh của chính họ được phóng to ra nữa. Tình yêu là nguyên tắc căn bản để xây dựng một gia đình thành công, hạnh phúc.

Tình yêu thương không phải lúc nào cũng tỏ ra yêu thương, âu yếm, tử tế cưng chìu hay nhiều cách bộc lộ thương yêu trìu mến bằng hành vi cử chỉ khác.

Lắm khi nó cũng được bộc lộ bằng thái độ nghiêm khắc nữa, nếu cần và thường được bậc làm cha mẹ dùng để chứng tỏ tình yêu thương chăm lo cho con cái cũng y như các hành vi cử chỉ bộc lộ sự trìu mến nuông chìu vậy. Sinh hoạt gia đình thuở đầu đời phần lớn là điều kiện để tạo hạnh phúc tương lai cho con cái. Tuỳ theo các điều kiện đó chúng sẽ thu gặt phước hạnh hoặc sẽ lâm vào cảnh bối rối bất an, sợ hãi, không có hạnh phúc khi thành nhơn. Sinh hoạt gia đình phần lớn do cha mẹ tạo ra. Nhiều vụ của bậc làm cha mẹ là tạo lập một tổ ấm cho con cái, chớ không phải con cái có nhiệm vụ phải tạo ra bầu không khí gia đình. Bậc làm cha mẹ có thể biến gia đình thành chiếc cửa sổ nhìn lên thiên đàng, hay thành ngỏ sau dẫn xuống hoả ngục. Chính họ sẽ tạo ra điều đó. Nếu họ bắt đầu bằng việc chọn đúng người bạn đời và bắt đầu đời sống vợ chồng với một chiếc bàn thờ trọng nhà, biết luôn luôn yêu thương tôn trọng nhau, họ có thể xây dựng một gia đình ngày càng được củng cố thêm để chống lại mọi cuộc tấn công của ma quỉ. Sau đây là vài quy luật nếu được áp dụng sớm và thận trọng noi theo, sẽ giúp người ta tạo được một gia đình thành công và hạnh phúc:

1. Phải để tình yêu thương làm yếu tố chỉ đạo mọi sự. Bất cứ những kế hoạch nào được lập ra, cũng phải xét xem nó có đi ngược lại với tình yêu thương và đem bóng tối thất vọng vào trong gia đình hay không. Bậc làm cha mẹ nói chung đều bắt đầu là một đôi vợ chồng yêu thương nhau và muốn điều đó cứ tồn tại mãi như vậy. Nhưng với thời gian, nhiều áp lực chồng chất và những tức giận thiếu kiên nhẫn, những lời lẽ làm tổn thương những hành vi thiếu suy nghĩ đã xen vào một cách dễ dàng, tình yêu thương ngự trị trên ngôi tối cao, bây giờ lại nảy sinh nhiều hiểu lầm, ấp ủ thù ghét, dè bĩu, lời lẽ tục tằn. Đáng lẽ người ta đừng bao giờ để các vấn đề ấy nảy sinh, vì chúng sẽ đem bóng tối đến cho gia đình và có thể cứ nấn ná ở lại mãi suốt đời. Người ta có thể làm tổn thương sâu xa bạn mình những lời lẽ cay đắng, nóng nảy, thiếu suy nghĩ đến nỗi chẳng bao giờ còn có thể phục hồi mối tình xưa nữa. Cho nên hãy tự xét, tự giữ lấy mình!

2. Phải chào đón mỗi đứa trẻ mới chào đời bằng thái độ thích thú hân hoan. Những ngày đầu đời của đứa trẻ phải bao bọc bằng các hàng động yêu thương âu yếm, và phải ở trong một gia đình đầy ánh sáng mặt trời và tình yêu thương, nơi nó cảm thấy được cần đến và yêu thương. Trẻ con hoàn toàn có thể khám phá người ta không cần đến nó căn cứ vào giọng nói và cung cách người ta đối xử với nó. Những lời lẽ tục tằn hay bị mẹ bỏ mặc một mình trong một thời gian dài cách không thích đáng có thể khiến đứa trẻ tiêm nhiểm ngay từ tấm bé khái niệm người ta đã không vui vẻ chào đón nó. Ngày nay người ta đã phải kinh ngạc về những điều biết được liên hệ với khả năng hiểu biết của trẻ con về môi trường xung quanh nó thuở đầu đời, và các ảnh hưởng của nó trên đứa trẻ. Chẳng còn gì để nghi ngờ ngày nay nhiều trẻ con mắc bệnh thần kinh cũng như nhiều thanh niên bị chứng lo lắng bất an, hay sợ hãi, là hậu quả của việc bị thiếu yêu thương chăm sóc thuở ấu thời. Tình yêu rất quan trọng đối với trẻ con.

3. Biến gia đình thành trung tâm huấn luyện đầu đời cho trẻ con. Câu Kinh Thánh: “Kìa, con cái là cơ nghiệp bởi Đức Giê-hô-va mà ra…” (Thi Thien 127:3) có nghĩa là Đức Chúa Trời đã ban con cái cho chúng ta. Chúng ta có trách nhiệm nặng nề là phải huấn luyện đào tạo thật xứng đáng những đời sống Ngài đã phó thác cho mình, để rồi sẽ giao lại cho Ngài. Nhiều bậc làm cha mẹ chẳng bao giờ nghĩ rằng gia đình là một trung tâm huấn luyện. Nó chỉ là chỗ để trú ngụ ban đêm, để ăn uống, là nơi để trở về khi không còn có địa điểm nào đặc biệt để lui tới nữa! Đây chính là tấn thảm kịch của chúng ta ngày nay. Giờ đây, chúng ta đang phải trả giả đắt cho thái độ đó đối với gia đình, nhưng vẫn chưa bắt đầu phải gặt lấy các hậu quả đang chờ đợi chúng ta, nếu với tư cách những người làm chủ gia đình, chúng ta vẫn chưa chịu thay đổi thái độ và sách lược sinh hoạt gia đình. Gia đình là nơi lý tưởng nhất trên đất này thích hợp cho việc đào tạo huấn luyện mọi việc. Cha mẹ là những người đứng trung gian trong mối liên hệ giữa con cái họ với Đức Chúa Trời. Thật vật, đối với trẻ nhỏ thì cha mẹ chúng tiêu biểu cho hình tượng của Đức Chúa Trời. Một cậu bé khoe “Cha tôi làm được mọi sự”, và nó cảm nhận điều đó hết sức sâu xa, chẳng khác gì cảm thức của chúng ta là Cơ Đốc nhân trưởng thành về Đức Chúa Trời là Đấng làm được mọi sự vậy. Cha mẹ là người bảo vệ và hướng dẫn đạo đức cũng như tôn giáo cho cuộc đời của trẻ. Mọi ý niệm về Đức Chúa Trời, về công chính và luân lý đạo đức, đều do những người làm cha làm mẹ và người lớn khác trong nhà hoặc những người khác nữa có liên hệ với gia đình tiêm dần vào cho con cái. Khi cha mẹ không phải là Cơ Đốc nhân, thì thường thường có một bà cô, một ông bà nội ngoại nào đó, hoặc các bà con bạn bè nào khác, có thể chia xẻ các lý tưởng Cơ Đốc giáo cho lũ con. Nhưng nếu chẳng có những người nào như thế để chia xẻ phần kiến thức và các lý tưởng đó thì đám trẻ sẽ lớn lên hoàn toàn chẳng hiểu biết gì cả. Một đứa trẻ không ý thức được các giá trị đạo đức rất dễ trở thành một người lớn hoàn toàn không biết gì đến các giá trị đích thực ở đời, như công bằng, sòng phẳng, thành thật và thanh liên, ngay thẳng. Từ đám trẻ con như gỗ tạp đó, đã cấu thành loại gỗ xấu là những tên tội phạm những kẻ không thích ứng được với đời sống. Nếu các bậc làm cha làm mẹ không dạy dỗ huấn luyện thích đáng con cái mình, rồi chúng cũng không được những người khác nữa giáo dục, đaò tạo thật tốt, thì còn có hi vọng gì để chúng được dạy dỗ huấn luyện cho tốt? Điều mà những người làm cha làm mẹ không phải là Cơ Đốc nhân cần ý thức ấy là sự kiện kinh khủng chỉ sau một hoặc hai thế hệ, những người không được giáo dục huấn luyện theo Cơ Đốc giáo sẽ trở thành người ngoại đạo hoàn toàn! Cả đến các bậc làm cha làm mẹ là Cơ Đốc nhân cũng cần xét lại xem mình có làm được công việc của người đào tạo huấn luyện con cái thật tốt theo Cơ Đốc giáo hay không. Cha mẹ chẳng những phải đưa con cái mình vào Trường Chúa nhật và đi nhà thờ mà còn phải cung cấp thật nhiều sách tốt về tôn giáo nhằm xây dựng cho con người có phẩm hạnh đạo đức. Trẻ con rất dễ chịu ảnh hưởng của các sách chúng đọc. Chỉ lấp đầy tâm trí chúng bằng loại văn chương khôi hài, rẻ tiền bằng các tiết mục trên chương trình TV hằng ngày là hoàn toàn thiếu sót cũng như không lành mạnh về phương diện tình cảm, khiến chúng bị mất đi phần ảnh hưởng của các sách báo của nghệ thuật và âm nhạc Cơ Đốc giáo điều bạn có thể trông đợi là sẽ tạo ra những con người ngoại đạo! Bậc làm cha mẹ phải lo sao cho con cái mình được dạy dỗ huấn luyện theo đúng các tiêu chuẩn đạo đức, xã hội và tôn giáo, cho dù phải trả bằng bất cứ giá nào.

4. Phải nghiêm khắc với trẻ con khi cần. Bradley là một bé trai cao lớn, mười lăm tuổi, có cha mẹ là Cơ Đốc nhân. Cậu ta đến xin tôi giúp ý kiến, vì cậu ta than phiền là không biết cha cậu có yêu thương cậu hay không. Tôi hỏi: “Thế tại sao vậy, có chuyện gì không Brad?” Cậu bé giải thích: “Dạ, cha tôi chẳng bao giờ dạy bảo gì tôi cả. Ông nói tôi là một cậu bé ngoan, nên chẳng cần phải dạy bảo, sửa trị gì. Nhưng tôi thì biết một thiếi niên mười lăm tuổi có rất nhiều sai lầm và thỉnh thoảng cũng cần phải đựơc sửa trị. Nếu thỉnh thoảng ông dạy bảo sửa trị tôi về một vài việc gì đó, tôi mới có thể tự tin hơn. Căn cứ vào điều ông ấy làm, tôi nghĩ là ông chẳng yêu thương gì tôi cả, nhưng tôi không có cách nào để biết rõ có phải chắc chắn như vậy không”. Tôi đã giúp Brad để cậu ta hiểu rõ cha cậu hơn. Chúng tôi cùng thảo ra một hệ thống các việc nên làm và không nên làm đối với một đứa con trai vào tuổi mười lăm. Rồi cậu ta yêu cầu tôi bảo với cha cậu và giúp ông ta hiểu rằng cậu ta muốn được cha mình dạy dỗ sửa trị mới an lòng được. Nhưng cha cậu ta lại thuộc loại người không chịu lợi dụng cách dạy don như thế, tuy ngoài chuyện đó ra, ông ta là người đứng đắn đàng hoàng. Ông cha này đã không thấy được cách đối xử mềm mỏng, cưng chìu con trai đã thật sự có ảnh hưởng tốt – hay xấu – nào trên con trai mình. Tôi đã khuyên giúp cậu Brad mấy tháng liền, giúp cậu ta về những gì cần chú ý mà ở nhà, chẳng có ai bảo cho cậu biết cả. Cậu ta đã trở thành một thanh niên hết sức đứng đắn và tạm thời đã thành công trong đời sống, nhưng rất có thể là về sau này nhiều vấn đề tinh thần có thể nảy sinh, vì bị thiếu tình thương của cha mẹ. Trong một cuộc trao đổi tiếp xúc tự vấn về chuyện vợ chồng, một ông cha than phiền rằng phần lớn thì giờ, ông ta phải xa gia đình, vợ ông ta thì không chịu trừng phạt con cái mỗi khi có cần. Bà ta nói: “Tôi muốn cho bọn trẻ yêu thương tôi. Tôi không muốn cho chúng lớn lên và cảm thấy tôi luôn luôn là người duy nhất đã trừng phạt chúng”. Tôi đã giải thích cho bà ta rằng làm như vậy là bà ta đang thật sự đẩy cho chúng ra xa bà ta – chớ không phải đang kéo chúng về phía mình. Bà ta hoàn toàn không biết rằng con cái không được sửa trị, sau này sẽ khinh dể cha mẹ chúng vì đã để cho chúng lớn lên như vậy, Có lẽ bạn đã được đọc câu chuyện về một thanh niên hư hỏng và bị bắt bỏ tù. Mẹ cậu ta đến thăm vừa khóc vừa kể bà ta đã làm hết sức mình để chứng minh bà ta đã hết lòng yêu thương cậu. Chàng thanh niên nọ đã lạnh lùng trả lời: “Thưa mẹ, bây giờ mẹ có khóc cho con cũng vô ích mà thôi. Phải chỉ hồi trước, mẹ chịu trừng phạt con mỗi khi có cần, bắt con phải biết vâng lời, thì ngày nay, con đâu phải ra nông nổi này!” Các thanh thiếu niên thường kể rằng cha mẹ chúng đã không sửa trị chúng thích đáng, và chúng cảm thấy không an lòng vì sợ sơ sót đó. Trong một buổi gặp gỡ trao đổi tư vấn, một thiếu nữ kể lại rằng cô ta được dung dưỡng đối với một số việc làm xấu của trẻ con, và mẹ cô ta chẳng bao giờ trừng phạt cô ta về việc đó: “Bây giờ, tôi có mặc cảm phạm tội. Tôi muốn có một ai đó đánh tôi cho nhừ đòn, hoặc tôi muốn làm một việc gì đó thật xấu xa, để Hội thánh sẽ công khai tố cáo tôi, để tôi sẽ bị trừng phạt về những việc xấu xa tôi đã làm. Tôi nghĩ rằng làm như vậy sẽ tốt hơn”. Đây là một trường hợp đảo ngược việc “tự thần thánh hoá” (paranois) – khi có người không sợ bị ngược đãi, mà thật sự muốn bị ngược đãi. Đó là ý thức về nhu cầu phải bị trừng phạt về tội lỗi chưa được giải toả. Tôi đã giúp cô ta trở về với tâm trạng tình cảm bình thường hơn. Trường hợp này giúp vạch rõ những người làm cha làm mẹ có thể làm hại con cái mình khi không chịu sửa trị và trừng phạt chúng thích đáng. Khái niệm đừng bao giờ nên trừng phạt con cái là trái cả với Kinh Thánh, lẫn với ngành tâm lý học lành mạnh cho thiếu nhi nữa. “Khi con đánh nó bằng roi vọt, ắt giải cứu linh hồn nó khải âm phủ” (Cham Ngon 23:14) “Chứ tha sửa phạt trẻ thơ, dầu đánh nó bằng roi vọt, nó chẳng chết đâu” (Cham Ngon 23:14). “Hãy dạy cho trẻ thơ con đường nó phải theo; dầu khi nó trở về già, cũng không hề lìa khỏi đó” (Cham Ngon 22:6). Mặt khác, lại có người làm cha mẹ tàn bạo, đánh đập con cái không chút sót thương. Lẽ tự nhiên các hành động như thế rất tai hại, ngay cả nguy hiểm cho đứa trẻ nữa. Trong bất cứ trường hợp nào trừng phạt con cái nào phải có sự hoà hợp phải lẽ tình thương và sự nghiêm khắc để đứa trẻ ý thức được rõ ràng rằng tuy nó bị cha mẹ sửa phạt người làm cha làm mẹ đó vẫn rất yêu thương nó. Đừng bao giờ nói với trẻ con chúng xấu xa, gian ác, bần tiện và ma quỉ sẽ “bắt” chúng. thật đáng buồn vì từ lâu, những người làm cha làm mẹ đã nói những điều xấu xa, ác độc đó đối với con cái họ, đến nỗi hầu như chúng hoàn toàn “bị phá sản” về mặt tình cảm. Điều tệ hại nhất mà một bà mẹ có thể nói với đứa con gái mười tuổi của mình là “Mầy thì chẳng bao giờ kiếm được chồng tử tế đâu. Chẳng có thằng nào lại chịu lấy một đứa như mầy – đồ chậm như rùa. Chẳng được cái tích sự gì cả!” Hoặc con trai thường bị chê là chẳng làm được việc gì, chẳng đáng giá ba xu, hoặc những lời chê bai tương tự. Đó là những gợi ý gây tai hại. Vào thời gian trẻ được mười tuổi trở lên, chúng bất an, lo sợ cuộc đời tình cảm thay đổi luôn cho nên người ta rất ít giúp đỡ gì được cho chúng. Chúng học thì chẳng mấy giỏi dang khó thích ứng với xã hội, và nhiều trẻ sẽ phải đau khổ suốt đời chỉ vì những lời chê bai như vậy của cha mẹ chúng. Do những hoàn cảnh như thế mà nhiều thanh niên đã phạm pháp, có cách ăn ở phi luân vô đạo, trở thành ma cạo ma cô. Phải trình bày cho trẻ con một viễn ảnh tốt đẹp về tương lai, để chúng cảm thấy mình sẽ được sống êm đẹp, và bộc lộ lòng tin quyết rằng chúng sẽ được như vậy. Khi cậu Joey Barnes, mười hai tuổi, gặp khó khăn trong chuyện học hành ở nhà trường, cha cậu biết đựơc việc ấy và hỏi chuyện cậu ta. Joey thừa nhận chỗ thiếu sót của mình và đồng ý ngày hôm sau sẽ học tốt hơn. Người cha đánh cậu ta một roi và nói: “Con biết như vậy là tốt lắm, nhưng ba cũng phải phạt con về chuyện đó. Con còn có thể làm hơn thế nữa kia. Sau này, biết đâu con sẽ có thể là giám đốc một công ty lớn, cũng có thể làm Thượng Nghị sĩ Hoa-kỳ nữa. Hôm nay, ba phải góp phần của mình vào việc làm cho con trở thành một người tốt” Joey đã không hề quên được những lời lẽ ôn tồn đó. Ngọn roi chỉ khiến cho cậu ta đau đớn trong chốc lát, nhưng sau khi đã hết đau, những lời vàng ngọc về lòng tin tưởng đặt vào tương lai cậu ta đã sống trong lòng cậu bé suốt nhiều năm tuổi, Và chắc chắn là có ngày, Joey sẽ thành công như cha cậu ta đã tiên đoán – điều đó rất có thể xảy ra phần lớn là do phương pháp mà cậu bé đã được nuôi dạy. Cũng có thể áp dụng cho các bé gái cùng một bài học như thế. Nói chung, các bé gái có thể còn có mức độ bất an và sợ sệt cao hơn cả các bé trai. Nếu khi dùng ngọn roi sửa phạt, mà người mẹ còn thêm được vài lời tiên tri “đầy lạc quan về sự thành công của bé Bethy, thì cô ta sẽ thực hiện ngàn lần tốt đẹp hơn những gì cô bé đã được răn dạy. 5. Bậc làm cha mẹ phải nhớ rằng phần lớn con cái họ chính là hình ảnh của đời sống họ. Đức Chúa Trời đã phán từ lâu: “Cha ăn trái nho chua, mà con ghê rằng” (Exe 18:2). “Cha nào con nấy”. Sự giống nhau về thể xác của cha mẹ được truyền sang cho con cái thể nào, thì trẻ con cũng thừa hưởng các đặc điểm của cha mẹ chúng như vậy. Nếu những người làm cha làm mẹ không thật thà, không thành thật, giả hình hay không tốt về một điểm nào đó, con cái họ cũng thường bị nhiễm cùng những màu sắc y như thế. Thỉnh thoảng cũng có trường hợp cha mẹ lũ con biết phản ứng chống lại các thói xấu ấy và trở thành người ngay thẳng tử tế. Nhưng có nhiều nét về cá tính của cha mẹ được “phản chiếu” trong đời sống con cái họ. Cho nên điều vô cùng quan trọng là người làm cha làm mẹ không những chỉ bảo cho con cái mình phải làm gì mà còn phải làm điều tốt, điều phải trước mặt chúng nữa. Có ai đó đã nói rất đúng rằng: “Gương tốt có sức mạnh hơn lời dạy đến mười lần”. Người làm cha, mẹ muốn con cái mình trở thành người tốt cho xã hội, phải tự mình nêu gương tốt. Có lẽ câu chuyện về người cha và đứa con đi trên tuyết, đã khiến được quý độc giả chú ý. Vào buổi sáng trời đầy tuyết, một người cha ở trong nhà đi ra, nghe đàng sau mình có những tiếng văng vẳng. Ông ta quay lại tìm quanh thấy đó là con trai mình. Với nét mặt rạng rỡ, cậu bé nói: “Cha xem, con bước đúng vào các dấu chân của cha đó!” Người cha suy nghĩ một chặp về chính cuộc đời mình. Cậu bé đã nói đúng. Ông ta nhận thức rằng rồi đây thằng bé noi đúng theo dấu chân mình cách vô cùng quan trọng hơn cách nó đi trên con đường ngập tuyết này. Người cha liền hướng về Đấng Christ để có thể dẫn dắt cậu bé đi theo con đừơng đúng. Nhiều bậc làm cha làm mẹ khác cũng nên làm như vậy. Nếu bạn không phải là một Cơ Đốc nhân mà đang làm cha, làm mẹ, hãy thật lòng suy xét về Đấng Christ, hãy thờ kính tôn trọng Ngài. Hoặc nếu bạn chỉ là một Cơ Đốc nhân hữu danh vô thực đời sống đã không đáng nêu gương tốt cho con cái bạn hãy nhanh chóng lưu ý đến vấn đề này. Bạn không còn lý do gì để phải suy nghĩ lâu hơn nữa. Trẻ con cũng chịu ảnh hưởng của môi trường xung quanh nó thuở đầu đời. Bậc làm ch mẹ cần biết rằng có nhiều điều nhỏ nhặt họ nói và làm, có thể ảnh hưởng đến con cái mình suốt đời. Để minh họa, trong một buổi gặp gỡ trao đổi tư vấn, một bà rất thông minh than phiền rằng bà ta luôn bị một nỗi lo sợ vô cớ xâm chiếm, và giải thích: “Nó thường đến vào khoản mặt trời lặn và kéo dài cho đến khi trời tối hẳn”. Tôi hỏi: “Thế nó có xuất hiện thường xuyên không?” Bà t anói: “À, có khi có khi không, nhưng rất thường vào mùa xuân và đầu mùa hè, chẳng biết vì lý do gì”. Tôi hỏi: “Thế hồi nhỏ, bà có gặp chuyện gì gây chấn động mạnh chẳng hạn như bị cha mẹ bỏ mặc một mình, hay bị ai dọa nhát gì không?” Bà ta suy nghĩ một chập, rồi bỗng reo lên: “Có, nhưng tôi chẳng bao giờ nghĩ rằng chuyện đó lại có liên hệ gì đến tôi. Hồi tôi hãy còn rất nhỏ, có lần mẹ tôi đem tôi ra bờ sông, cột tôi thật chắc, rồi bà xuống sông để bơi. Bây giờ tôi nhớ lại, là mẹ tôi chỉ trở lại khi trời đã tối mịt. Lúc ấy tôi sợ hãi hết sức, vì tôi sợ rằng bà sẽ chẳng bao giờ còn trở lại nữa”. “Lúc ấy là vào mùa xuân nào trong năm?” “Đó là vào lúc cuối xuân, đầu hè” Tôi giải thích: “Thế thì đó chính là căn nguyên nỗi lo sợ thường xuyên của bà. Nó đã bị dìm xuống, bị giấu kín trong tiềm thức. Nó chỉ chổi dậy vừa đủ để gây rắc rối cho riêng bà bằng một nỗi sợ hãi sâu xa, nhưng không đầy đủ để bà kết hợp nó với cái kỷ niệm về kinh nghiệm ấy”. Về sau, bà ta kể lại rằng tất cả những chuyện sợ hãi trước kia về lúc chiều tối đó đã hoàn toàn được làm sáng tỏ. Khi cơn xúc động gây sợ hãi nổi lên bà ta nhận biết ngay đó là gì, nên chẳng bao lâu, nó cũng chấm dứt. Nhiều người lớn cũng có cùng một kinh nghiệm như vậy, chỉ có điều là trầm trọng hơn nhiều, bă1t nguồn từ thuở ấu thời và trong môi trường gia đình thuở đầu đời. Có một số kinh nghiệm như vậy sâu kín và trầm trọng đến nỗi những người ấy bị chứng suy sụp tinh thần. Nhiều người khác, tuy không bị ảnh hưởng nặng nề như vậy, cũng bị chứng xúc động bất thường khá trầm trọng hay phải thận trọng, đừng bao giờ bỏ mặc, các con nhỏ mà không có người coi giữ, hoặc dọa nhát chúng bằng những câu chuyện gấu tha cọp chụp cũng như nhiều cách dọa nhát khác nữa mà nhiều khi những người làm cha làm mẹ vẫn vô tình hù dọa con cái của mình. Chúng có thể là điều kiện gây khổ sở suốt đời cho đứa trẻ, trừ khi tự nó có đủ sức để thắng hơn nỗi lo sợ đó, hoặc nhờ sự trợ giúp của một nhà chuyên môn sau này.

6. Những người làm cha làm mẹ phải tỏ ra yêu thương nhau trước mặt con cái họ. Trong những buổi gặp gỡ trao đổi tư vấn, nhiều người làm cha mẹ cho biết họ ít khi tỏ ra yêu thương âu yếm nhau trước mặt con cái ở nhà. Con cái rất cần chứng kiến việc cha mẹ chúng tỏ ra thương yêu âu yếm nhau, và cảm thấy như có một ngọn lửa trong đó làm ấm lòng chúng nó. Nhất là các con nhỏ thường cảm thấy an tâm hơn khi cha mẹ chúng tỏ ra yêu thương âu yếm nhau trước mặt chúng. Sự vắng bóng những cử chỉ dịu dàng, trìu mến và chìu chuộng nhau đó có thể khiến chính bọn trẻ trở thành những con người lạnh lùng. Chúng cũng thường thắc mắc cha mẹ chúng xem nhau như thế nào, có thật sự yêu thương nhau như hay không? Trẻ con rất nhạy cảm đối với sự trìu mến vuốt ve, chúng sẽ thật sự “uống lấy” điều đó. Chúng có khả năng cảm nhận cao độ để thấu hiểu tình yêu thương và địa vị của nó trong đời sống người ta nữa. Chúng cần được yêu thương và tự nhiên yêu thương người khác. Những trẻ con bình thường tự nhiên thương yêu các trẻ khác đồng tuổi. Chúng thường tỏ ra quyếtn luyến đặc biệt những người già cả, nếu chúng biết chắc chắn rằng sự quyến luyến đó được người lớn tuổi kia vừa tiếp nhận vừa đáp lại cho chúng. Một đứa trẻ cũng có thể dứt khoát giận hờn khi ai đó khước từ tình yêu thương củ anó, nhất là khi đó là một người già cả. Trẻ con có ý thức bén nhạy, sâu sắc về nhu cầu yêu thương trìu mến và chấp nhận tán thưởng sự yêu thương trìu mến. Một số bậc làm cha mẹ ngại rằng tỏ ra yêu thương âu yếm nhau trước mặt con cái có thể khiến chúng suy nghĩ quá nhiều. Họ sợ trẻ con có thể có ý nghĩ xấu về sinh hoạt giới tính nếu họ tỏ ra quá yêu thương âu yếm nhau – nhất là trong việc hôn nhau, ôm choàng lấy nhau. Chẳng điều gì lại có thể sai sự thật hơn thế. Có một chân lý gần như phổ quát, ấy là con cái chẳng bao giờ kết hợp chuyện làm tình với việc cha mẹ chúng bày tỏ lòng yêu thương âu yếm nhau. Trước hết, những con nhỏ mới có nhu cầu được thấy những cách bộc lộ đó hơn hết và an toàn vì chúng không biết những chuyện kia là gì. Những trẻ đã được mười tuổi trở lên đã biết chuyện tình dục là gì thì thường nghĩ, hoặc là cha mẹ chúng đang có một đời sống vợ chồng thật hạnh phúc, hoặc là họ muốn phô trương tình yêu của họ cho chúng thấy. Cả khi tất cả đám con cái đều biết rõ mọi chuyện trong lãnh vực kia, thì điều đó cũng chỉ là chuyện tự nhiên trong đời sống lứa đôi tốt đẹp mà thôi. Niềm hạnh phúc bình thường của đời sống lứa đôi, bộc lộ bằng hành vi âu yếm dịu dàng sao lại có thể làm hại trẻ con được, cả khi chúng biết rõ cả đến từng chi tiết, của nếp sống ấy. Chúng sẽ sớm trông mong có được một đời sống lứa đôi như vậy, và cha mẹ chúng hẳn không phải đã nêu gương tốt của kẻ làm cha mẹ để chúng noi theo hay sao? Bậc làm cha mẹ cần nên dứt bỏ ý kiến sai lầm về cách bộc lộ tình yêu như vậy trước mặt con cái càng sớm càng hay. Sống là để yêu thương, và điều đó càng được bộc lộ thích đáng, phải lẽ, và ý nhị trước mặt đàn con bao nhiêu, thì chúng sẽ càng được mạnh khoẻ về phương diện tình cảm và càng được hạnh phúc bấy nhiêu. Tình yêu không phải là sự đam mê, tình yêu không phải là lòng kiêu hãnh, Tình yêu là cuộc du hành sóng đôi, Không phải của những làn gió nhẹ, cũng không phải là của cơn phong ba Tình yêu là cánh buồm giương lên vững chắc, Sâu sa hơn giây phút xuất thần, dịu dàng hơn ánh sáng, Sanh ra dưới ánh mặt trời, sanh ra trong đêm Cháy rực chiến thắng mạnh hơn trong thu abại, Tình yêu là một thánh lễ được cử hành vì một cây thánh giá. M.V.H. Trẻ con cũng cần ý thức được sự an toàn thuộc linh. Nhiều khi chúng cảm thấy nhu cầu ấy thật mãnh liệt như trong câu chuyện mà Martin Simon đã tả lại về công chức Margaret của nước Anh trong quyển sách ông viết cho các bậc làm cha mẹ. “Lúc công chúa Margaret lên năm tuổi, báo chí tường thuật một ngày nọ, cô bé ra khỏi nhà thờ với nỗi thất vọng đắng cay. Bài cầu nguyện của vị mục sư đã khiến cho cô bối rối. Cô ta hỏi mẹ: “Tại sao ông ấy chỉ cầu nguyện cho mẹ, cho cha và chị Elizabeth mà thôi? Chính con cũng xấu như tất cả mọi người chứ?” Có người tưởng rằng trẻ con sống hồn nhiên vô tâm chẳng hề băn khoăn lo nghĩ gì đến những điều thuộc linh, hoặc ngay đến cõi đời đời nữa. Nhưng chúng vốn thường quan tâm đến hững điều đó, ngay với một trẻ năm tuổi hay nhỏ hơn nữa. Những người lớn thường thiếu sót trong việc dạy trẻ những chuyện nhỏ nhặt trong gia đình, do đó nhiều trẻ phải bị thiệt thòi, đau khổ sau này.

7. Tránh cãi nhau trước mặt con cái, nhưng phải thảo luận mọi việc thật tự do. Trẻ còn nhỏ không biết có chuyện gì xảy ra khi cha mẹ chúng cãi nhau – nhất là khi họ dùng những lời lẽ nặng nề tức giận. Ngay cả lúc thảo luận sôi nổi có bất đồng ý kiến và nói to tiếng cũng thường gây rắc rối cho trẻ con về phương diện tình cảm. Trẻ được mười tuổi trở lên cũng bối rối, khi thấy cha mẹ chúng cãi nhau. Bầu không khí gây gỗ bao giờ cũng gây khó chịu, cho dù phần đông những người làm cha mẹ bảo rằng mình yêu thương nhau. Trẻ từ mười tuổi trở lên thường cảm thấy đời sống vợ chồng không phải là sự thành công, và hoặc là chúng sẽ không muốn cưới vợ lấy chồng, hoặc in trí đó chính là mẫu mực của sinh hoạt lứa đôi. Cả hai cách kết luận ấy đều là bất hạnh cả. Nếu có các vấn đề nảy sinh cần bàn cãi, hãy thảo luận với nhau thoải mái, hoà nhã. Nếu cuộc tranh luận vượt ra ngoài tầm kiểm soát và trở thành gần như cãi nhau, thì phải chấm dứt ngay tức khắc! Hãy thay đổi đề tài, Hãy trấn an lũ trẻ và giúp chúng chấp nhận sự kiện bàn cãi, thảo luận với nhau là một trong những điều cần thiết của sinh hoạt gia đình. Hãy tập thói quen nếu cần phải tranh cãi, thì các bạn hãy thu xếp lìa xa con cái, đi tìm một chỗ nào đó riêng biệt để trút cơn giận dữ của mình. Đây là một giải pháp rất dở, nhưng vẫn tốt hơn là cứ ấm ức từ ngày này sang ngày khác, hoặc để cho nó nổ bùng ra ngay trứơc mặt con cái cho thấy cái phương pháp giải quyết vấn đề ấu trĩ. Hai con người thông minh, trưởng thành phải có khả năng thảo luận với nhau các vấnđ ề cách thông cảm nhạy bén, đạt đến một kế hoạch hay một kết luận khả dĩ thoả đáng nào đó. Cãi nhau gây tổn thương cho nhau bằng những lời lẽ cạn tàu ráo móng, công kích và phản kích nhau, là hoàn toàn điên dại. Đây là việc phải tránh như cũng phải tránh nhiều việc làm ấu trĩ khác nữa. Thỉnh thoảng con cái cần được nghe những cuộc thảo luận đầu thông cảm về các vấn đề liên hệ đến sinh hoạt trong gia đình, và cả đến các công chuyện làm ăn riêng tư của cha mẹ chúng nữa. Nhưng bạn chẳng thấy khía cạnh “ngu ngốc” của việc cứ cãi nhau luôn như đã mô tả hay sao? Vậy hãy tập thành thói quen đừng bao giờ dùng đến phương pháp đó để thu xếp các vấn đề. Nên nhớ là cãi nhau thì chẳng bao giờ dàn xếp được một vấn đề gì cả. Mỗi lần gây tổn thương nhau như vậy sẽ đưa vợ chồng rời xa nhau hơn; cho nên hãy ngưng ngay tức khắc – hay tốt hơn nữa là đừng bao giờ để cho nó bắt đầu nếu các bạn là những người làm cha làm mẹ hãy còn trẻ. 8. Xin lỗi khi cần thiết. Người làm cha mẹ cần xin lỗi nhau khi có làm gì hoặc nói gì gây tổn thương cho người kia. Nếu người này làm tổn thương người kia trước mặt con cái, thì việc xin lỗi cũng cần thực hiện trứơc mặt con cái. Có một số người – nhất là đàn ông – cảm thấy họ không thể hạ mình xin lỗi vợ – làm như vậy là hạ thấp phẩm giá của họ với cương vị chủ gia đình. Thái độ như thế là sai lầm và hoàn toàn phi Cơ Đốc gáo. Chẳng có ai luôn luôn làm phải, làm đúng cả! Cha mẹ cũng thường phải xin lỗi con cái vì chúng biết rõ khi nó bị cha mẹ đối xử oan ức. Nó cũng biết khi nào cần có lời xin lỗi. Đừng bao giờ nghĩ – dầu chỉ trong một giây đồng hồ thôi – rằng nếu bạn xin lỗi con mình thì bạn sẽ không còn được nó kính trọng nữa, khi bạn biết rõ mình đã sai lầm. Tuy nhiên, người làm cha làm mẹ không nên cứ xin lỗi mãi đủ thứ chuyện, dầu rất nhẹ nhất; chỉ nên xin lỗi con khi nào người làm cha làm mẹ nhận thấy rõ ràng là mình đã sai lầm trong một việc làm hay đã lầm lẫn nghiêm trọng. Thí dụ, cha mẹ thỉnh thoảng có thể trừng phạt con vì được thông tin sai lầm và nó không hề thật sự phạm lỗi theo điều được người khác kể lại. trong trường hợp naỳ, cha mẹ phải giải thích đầu đuôi cho con nghe, và xin lỗi nó. Nếu có thành viên nào khác trong gia đình đáng bị khiển trách, thì người đó cũng phải bị sửa trị. Cònmột việc nữa cũng quan trọng torng vấn đề này, nếu người làm cha làm mẹ xin lỗi con cái phải thực hiện việc đó ngay sau khi làm sai. Nếu không, trẻ con vốn mau quên sẽ không kết hợp thật đúng lời xin lỗi với điều đã xảy ra đòi hỏi phải xin lỗi, và như thế chủ đích của việc làm ấy bị sai đi. Lẽ dĩ nhiên con cái phải cẩn thận xin lỗi cha mẹ khi có làm điều gì sai lầm làm tổn thương đến cha mẹ hay gây rắc rối cho cha mẹ hoặc nười khác. trẻ con được học tập tôn trọng quyền lợi người khác và xin lỗi khi phạm lỗi nói chung, cũng sẽ biết điều chỉnh và cố gắng hết sức mình để trở thành những công dân tốt theo Cơ Đốc giáo.

9. Tôn trọng quyển lợi của con cái. Mỗi đứa con đều có quyền lợi riêng trong gia đình. Nếu cha mẹ không tôn trọng các quyền lợi đó, sẽ khó dạy được cho chúng biết tôn trọng quyền lợi người khác. Cuộc đời nó sẽ bị lệch lạc và nó sẽ lớn lên với nhiều thái độ sai lầm đối với đời sống nói chung. Một số các nhà tâm lý học khẳng định rằng cha mẹ không bao giờ nên lấy đi phần trợ cấp hằng tuần của một đứa trẻ, nếu nó có một khoản tiền phụ cấp như vậy. Nếu nó có được một khoản trợ cấp nào, thì đó là tiền hay tài sản khác của nó. Cất đi của nó, là dạy nó rằng các giá trị của tiền bạc hay tài sản là không quan trọng. Nếu khoẻn trợ cấp ấy cứ thường xuyên bị cúp đi, thì cuối cùng, nó sẽ quyết định rằng việc làm như thế là một quy luật của đời sống. Cho nên khi nó có trộm cắp của ai khác, thì đừng quá tỏ ra khe khắt với nó – chính bạn đã tạo điều kiện, đã ủng hộ nó về phương diện tâm lý chính việc làm đó. Cha mẹ phải làm sao nếu khoản phụ cấp kia đã được quy định hẳn hoi, nhưng rồi có một thay đổi nào đó cần thiết liên hệ đến nó? Chẳng hạn, người cha bị mất việc, và khoản phụ cấp đó cũng bị cắt đi; hoặc đứa con đã không giữ một quy luật quan trọng trong gia đình, và cắt đi phần trợ cấp của nó được xem là một biện pháp để trừng phạt nó. Thứ nhất, nếu đó là trường hợp trước, hãy ngồi lại và giải thích tình hình cho đứa trẻ, và mọi người đều phải tạm thời chịu hi sinh, cho đến khi nào người cha lại tìm được việc làm. Nhưng phải giải thích cặn kẽ cho nó, đừng chỉ cắt phần nó mà chẳng giải thích gì cả. Đứa trẻ cũng biết nghĩ, và nó cần chia xẻ hoàn cảnh ấy với cả nhà. Nếu nó bằng lòng, thì sẽ dễ thích ứng hơn với đời sống khi trưởng thành. Thứ hai, khi bạn muốn xin cúp trợ cấp như một biện pháp trừng phạt; thì đừng cắt trọn vẹn. hãy giải thích cho nó vì không vâng lời, bạn sẽ tạm giữ lại phần trợ cấp tuần lễ này của nó. Hình phạt này cũng có giá trị tương đương với việc nó bị cắt hết, bị mất đi cả số tiền, nhưng bạn vẫn chưa cắt đứt lòng tin của nó vì tiền đó của nó, cũng như lpơng bổng của bạn là tiền của bạn vậy, và nó thường nhận thấy rõ ràng như vậy. Số tiền trợ cấp bị giữ lại sẽ được thêm vào với số trợ cấp tuần sau – trừ khi bạncó ý đồ nhằm thực hiện lẽ công bằng, dạy cho đứa trẻ nhiều khi nó cũng phải bị trừng phạt về sự không vâng lời của nó phải nộp số trợ cấp hằng tuần ấy vào một quaỹ chung đã được mở ra nhằm mục đích làm một thứ trừng phạt đối với sự không vâng lời của nó. Đứa trẻ cần đựơc dạy cho bài học là ở một nơi nào đó,v ào một lúc naò đó, người ta phải trả giá cho sự không vâng lời của mình. Đây có thể là một phương pháp hay để nó học thuộc bài học ấy. Khi đám con cái được phân công làm một việc gì, đừng lấy lại công việc đã giao cho nó để đưa cho đứa khác mà không có sự thông cảm trước của đứa con về việc đó, và tại sao lại phải có thay đổi như vậy. Dạy cho con cái biết trách nhiệm là điều rất quan trọng. nếu cha mẹ giao cho con cái nhiệm vụ rồi chẳng có nguyên nhân rõ rệt nào cả, lấy lại công việc ấy giao cho đứa trẻ khác, chẳng bao lâu, đứa trẻ sẽ nghĩ rằng chính nó cũng có thể hứa điều này điều nọ, rồi lại mất lời tuỳ theo ý nó. Như vậy, lời hứa ít có giá trị với nó. Cha mẹ mình đã hứa rồi lại nuốt lời hết sức dễ dàng, tại sao mình lại không thể làm như vậy? Đừng bao giờ hứa với con việc gì mà bạn không làm cho xong. Nếu bạn thấy không thể làm được điều đã hứa với nó, phải giải thích cặn kẽ tại sao bạn không làm được, để nó thông cảm bân không hề muốn nuốt lời nhưng vì bạn không thể thực hiện đúng như đã hứa được. Nếu bạn hứa trừng phạt bằng đòn roi; thì phải giữ lời – trừ khi hoàn cảnh thay đổi, khiến bạn cũng phải thay đổi luôn kế hoạch của mình. Nếu có như vậy, hãy giải thích cặn kẽ cho nó hiểu tại sao bạn lại không làm như đã hứa. Nếu không nó sẽ cứ sống trong sự nơm nớp lo sợ trừng phạt sẽ có thể đến, cả khi thời hạn bạn đưa ra đã trôi qua lâu rồi, hoặc nó có thể cho rằng những gì bạn đã hứa chẳng có ý nghĩa gì cả. Nhiều khi nếu đứa trẻ đã chuộc lại mọi lỗi lầm bạn có thể dánh cho nó một hình thức trừng phạt thật nhẹ và giải thích cho nó sở dĩ như vậy vì nó đã biết sửa mình, đã chuộc lại lỗi lầm. Vào thời Cựu ước, Đức Chúa Trời được mọi người biết rõ là Đấng nhân từ thương xót. Có nhiều trường hợp Ngài đã đe dọa trừng phạt, nhưng rồi rút lại lời đe dọa đó, như trường hợp thành Ni-ni-ve (Xem sách Giô-na). Hãy trao một định luật, là bạn luôn luôn triệt để giữ lời hứa với các con của bạn, hoặc luôn luôn giải thích cho chúng thật cặn kẽ khi có thay đổi, và tại sao lại có thay đổi như vậy. Việc giải thích lý do rất quan trọng đối với trẻ con. Cha mẹ thường bảo đơn giản vứi trẻ con rằng chúng chẳng cần gì phải biết lý do tại sao. Câu trả lời này là sự sỉ nhục đối với một đứa trẻ thông minh. Nó có thể vâng lời và ngậm miệng – ít ra là đối với bạn – nhưng nó sẽ chẳng bao giờ nghĩ tốt về bạn, nhất là nếu nó đã lớn và biết là có một lý do tại sao, mà bạn muốn giấu kín hoặc vì quá cứng rắn mà không muốn nói ra lý do tại sao ấy. Cách đối xử như vậy, bạn sẽ không thể được lòng nó, mà bị mất lòng nó. Nó có thể nhìn bạn bằng thái độ thương hại hoặc khinh dể, và không tôn trọng hoặc kính trọng bạn như bạn muốn nó phải làm như vậy khi đã lớn khôn. 10. Hãy yêu thương con cái bằng cách vuốt ve âu yếm khi chúng còn nhỏ. Trẻ con vốn thích ngồi lên đùi và rúc vào lòng cha mẹ chúng. Việc làm đó khiến chúng cảm thấy an toàn hơn bất cứ điều gì khác. Chúng cần sự vuốt ve âu yếm bày tỏ sự gần gũi về thân xác như vậy. Trẻ con thường đến với cha mẹ và muốn được cha mẹ bộc lộ tình thương theo cách đó. Chỉ cần nựng nụi hôn hít một ít là chúng cảm thấy thoải mái, vui vẻ và hài lòng. Tất cả chúng ta nếu được cha mẹ yêu thương một cách bình thường, lành mạnh hồi nhỏ, chắc đều có những kỷ niệm về niềm vui được cha mẹ vuốt ve âu yếm như vậy. Những kỷ niệm ấy sẽ lưu lại mãi trong ký ức như những gì hạnh phúc nhất trong cuộc đời chúng ta. Chỉ cần được gần gũi, cảm thấy cha mẹ tỏ ra yêu thương chăm sóc mình, chúng ta cũng đủ thấy ấm lòng như được ở cõi thiên đàng rồi. Có thể quá nhiều gì đình sống trong sự căng thẳng thần kinh”, quá nhiều trẻ con phạm pháp, dễ sa vào tội lỗi, là vì những người làm cha mẹ ngày nay không có thì giờ để yêu thương và chơi đùa với con cái họ. Do đó, trẻ con đã lớn lên mà không được ai yêu thương, hiểu rõ chúng. Chúng đều cảm thấy thiếu an toàn và rất cần được mọi người quan tâm chú ý. Nhiều khi vì không được sự quan tâm chú ý cần thiết đó, chúng cố tự biến mình thành kẻ chai lì, mặc cảm tỏ thái độ đố kỵ thù ghét việc bộc lộ yêu thương trìu mến. Như thế. chúng rất dễ trở thành mồi ngon cho bọn côn đồ du đãng, trộm cướp băng đảng trong các thành phố, là những nơi dung dưỡng nảy sinh tội ác và lối sống vô luân vô đạo. Tại một trại hè có các thiếu nữ sắp đến tuổi hai mươi, nhiều cô đã đến trò chuyện với tôi, cho biết họ xuất thân từ các gia đình đã bị tan vỡ. Mẹ các cô không hề trò chuyện với các cô về vấn đề tình dục, hoặc hôn nhân. Nhưng may thay, đó là một số các cô gái tốt, muốn cho cuộc đời mình được tốt đẹp hơn. Họ họp mặt với nhau vào buổi trưa, sau giờ học ở trường, để đọc sách giáo dục về giới tính và hôn nhân cũng như nhiều vấn đề tương tự khác nữa. Vào mỗi cuộc họp như vậy mỗi người kể lại họ đã khám phá được gì khi đọc sách sau đó thảo luận về những vấn đề đã được nêu ra. Những câu chuyện bông đùa tục tỉu, nhảm nhí bị nghiêm cấm. Thỉnh thoảng một cô mới gia nhập nhóm của họ cũng kể chuyện tục tỉu. Các cô gái khác chỉ đơn giản bày tỏ lạnh nhạt không tán thành hoặc nghiêm khắc nhắc cho cô ta nhớ rằng nếu muốn họp mặt với họ thì không nên kể những câu chuyện như vậy. Cô ta có thể chọn, hoặc trở thành một thành viên tốt, hoặc rời khỏi nhóm. Thật là tuyệt diệu khi họ biết cách điều hành các buổi họp mặt và học hỏi được về các sự kiện cao quý can thiết trong đời sống, tình yêu, tình dục, hôn nhân và các vấn đề liên hệ. Các thiếu nữ ấy đã tìm ra một phương pháp để giải quyết các vấn đề của họ, tuy họ vẫn bị mất đi phần lớn sự giúp đỡ cần thiết của cha mẹ. Nhưng đáng buồn, đây chỉ là một ngoại lệ so với đa số thiếu nữ nói chung chẳng bao giờ nhận được tình thương yêu cần thiết từ cha mẹ họ. Việc thiếu mất âu yếm vuốt ve bộc lộ tình thương hồi còn nhỏ, có thể trở thành kinh nghiệm làm tê liệt một đứa trẻ. Nó có thể kết thành nhiều vấn đề quan trọng về phương diện tình cảm, có khi còn tạo ra bệnh tâm thần, khi trẻ trưởng thành. Tôi đã phải dành ra không biết bao nhiêu thì giờ để cố vấn khuyên giúp cho những người trưởng thành mà tuổi thơ phải sống trong tình trạng đói khát sự thương yêu trìu mến. Một số trong vòng họ là những thí dụ đáng thương hại hơn hết về tình trạng bị rối loạn xúc cả. Có một phụ nữ độc thân nọ, tuổi ngoài ba mươi, đã có thái độ ghét cay ghét đắng đàn ông. Qua công tác tư vấn, tôi được biết hồi còn bé, cha của bà ta từng nói với mẹ của bà: “Tôi giao con nhỏ này cho bà đó. Như bà biết đấy, từ ngày nó ra đời cho đến bây giờ tôi cảm thấy quá khổ sở vì nó rồi, tôi không biết còn có thể làm được gì cho nó nữa không? Bà ta không nhớ sau khi nói như vậy rồi, ông ta có còn đụng chạm gì đến bà ta, hay tỏ ra một dấu hiệu yêu thương trìu mến nào không, mà chỉ nhớ có một hai lần, ông ta đã trừng trị bà. Tuy bà ấy là người có đạo, nhưng lại quan niệm Đức Chúa Trời là một nhà cai trị độc tài – một bạo chúa, bạo quân, chỉ chờ cơ hội bực mình một tí, là trừng phạt bà ta ngay. Vì thế bà ta phải trốn tránh xã hội, và hầu như chẳng để ý đến bản thân với tư cách một phụ nữ. Mọi sự liên hệ đến tình dục dầu ở phương diện nào đều hoàn toàn là điều cấm kỵ. Bà ta có năng khiếu viết văn, một con người năng nổ, một tín đồ trung tín trong Hội thánh. Phải cần đến ba năm công tác tư vấn tích cực, tôi mới giúp đưa được bà ta trở lại làm một con người bình thường. Qua việc lập lại nhân cách của mình, bà ấy đã giải quyết được các vấn đề tình cảm nghiêm trọng của mình – vì đó chính là điều cần thiết đòi hỏi phải thực hiện. Thoạt đầu đức tin của bà đặt nơi Đức Chúa Trời đã phải qua một sự thử thách đầy đau khổ. Tuy nhiên, việc “biến hoá” được người pụ nữ này đã khiến mọi người phải chú ý. Toàn thể quan niệm của bà về Đức Chúa Trời đã được thay đổi. Bây giờ Ngài là một người Cha đầy lòng yêu thương ở trên trời. Bà ta trở thành một người đầy nữ tính, thay đổi cả cách ăn mặc, vóc dáng diện mạo của bà cũng thay đổi hoàn toàn. Toàn thể cách nhìn đời của bà đã thay đổi hẳn, và bà trở thành một người làm chứng đạo có hiệu quả. Những gì bà đã nghĩ về đàn ông đều thay đổi, và tỏ ra hết sức thoải mái, tự nhiên với họ; trong công việc, bà đã hoà nhập rất tốt vào xã hội, cũng như với những người cũng làm việc chung với bà. Toàn thể nhân cách của bà đã biến đổi hẳn, đến nỗi các bạn bà từng biết bà trước kia nhận thấy ngay là bà đã thay đổi hoàn toàn thành một con người khác hẳn. Bà trở thành một chứng nhân sống động cho quyền năng của ân điển Đức Chúa Trời và kết quả của công tác tư vấn theo Cơ Đốc giáo đã thay đổi trọn vẹn được người ta như vậy, khiến bà thật sự trở thành một con người mới hoàn toàn. Thật vậy bà thường xem mình là bà Jame cũ và bà Jame mới, đã thay đổi hoàn toàn. Nhưng bà không khỏi cảm thấy vô cùng khổ sở, và hầu như bị mất quân bình về tâm thần. Bà đã làm chứng nhiều lần, là nếu không có sự thay đổi như hiện nay, chắc bà đã hoàn toàn bị suy sụp tinh thần – và chắc chắn điều ấy rất đúng. Trên thế giới hiện có hàng triệu người đang bị khổ sở tương tự như vậy, tuy không trầm trọng như người phụ nữ này, do sự thiếu thốn tình thương của cha mẹ thuở đầu đời. Làm cha mẹ mà không yêu thương con cái cả về phương diện thân xác lẫn tình cảm, hầu như là một tội nặng đối với nhân loại. Rõ ràng Đức Chúa Trời muốn cho dòng dõi loài người phải được yêu thương chăm sóc như vậy. Loài cầm thú có thể bỏ rơi con cái của chúng, và chỉ một thời gian ngắn ngủi sau đó con cái chúng có thể tự lo liệu lấy. Nhưng phải chăm sóc cho một đứa trẻ từ sơ sinh đến khoảng mười lăm tuổi nó mới có thể tự lo lấy được. Vậy thì, bậc cha mẹ còn phải dành thêm nhiều năm nữa mới hoàn tất nỗi mọi công tác trang bị và huấn luyện để trẻ biết ban phát và tiếp nhận tình thương yêu để chúng hưởng được đời sống cách tốt đẹp nhất. Thế thì, sống là để yêu thương, và không có giai đoạn nào, trẻ con lại cần đến tình yêu thương một cách nghiêm trọng như thế. Muốn cho tình cảm của đứa trẻ khỏi bị thui chột, bế tắc suốt đời, thì giai đoạn từ khi mới lọt lòng cho đến khoảng sáu hoặc bảy tuổi. Những trẻ con lành mạnh và hạnh phúc nhất, sẽ trở thành những người trưởng thành hoà nhập tốt nhất với xã hội, với mọi người, nói chung là những người đã từng được thương yêu vuốt ve trìu mến, và cưng chìu đúng mức lúc hãy còn bé. Ngay đến trẻ trên mười tuổi cũng cần được nhắc đi nhắc lại rằng cha mẹ chúng vẫn yêu thương chúng. Nhiều khi chúng có hành động dường như muốn độc lập, nhưng vẫn tiềm ẩn nhu cầu muốn được thương yêu trìu mến và khen ngợi tán thưởng. Khi trẻ con đã lớn khôn hơn một chút các nhu cầu được thương yêu trìu mến đó biến thành nhu cầu muốn được khen ngợi, tán thưởng, thường bộc lộ ra ngoài. Nếu trẻ con không được điều đó ở nhà, chúng sẽ đi tìm nó ở chỗ khác. Chẳng hạn, nếu Charlie học lớp sáu, đem về nhà một phiếu điểm, mà mẹ nhìn vào rồi xụ mặt, cau mày gắt: “Coi sao mầy lại bị hai điểm 2 về Toán và Văn nữa? Mầy không cố gắng để học khá hơn hay sao? Mày có biết là nếu không giỏi hai môn đó, mầy sẽ chẳng bao giờ học lên cao nữa hay không? Rồi lại một điểm môn Anh văn nữa! Học hành như vậy, thì mầy sẽ còn làm gì được nữa trên cõi đời này!” Cậu bé buồn bã ra khỏi phòng sau bữa ăn chiều, muốn nổi loạn hơn bao giờ hết. Tối đó, nó bạo gan cãi nhau với chị nó: “Cha mẹ chỉ thấy mấy cái điểm xấu của em thôi, còn mấy môn được điểm 8 điểm 10 thì không chịu nhìn thấy. Có cố gắng học hành cực khổ đến đâu đi chăng nữa, thì cũng chỉ bị chê bai, chế nhạo mà thôi. Vậy thì còn cố gắng nữa mà làm gì?” Chị nó cố gắng giải thích cho nó là cha mẹ chúng vẫn khó tánh như vậy, cứ lờ đi và cố gắng thêm. Nhưng thật là thảm hại, vì thường thường đứa lớn hơn cũng đang chán nản, thì làm sao cung cấp được cho em mình tình yêu thương trìu mến đáng lẽ cha mẹ phải đưa đến cho con mình? Để trẻ hoà nhập tốt với xã hội trong tương lai các bậc làm cha mẹ nên thường xuyên khen ngợi tán thưởng chúng. Đồng thời cũng nên dâng lên những lời ca ngợi Đức Chúa Trời, về chúng. Việc làm đó sẽ không khiến chúng kiêu ngạo lên mặt đâu, nhưng sẽ giúp chúng lý do để biết tự trọng, và một cái nhìn sáng sủa, lạc quan về cuộc đời. Nó sẽ giúp giải quyết cho bạn rất nhiều vấn đề sau này trong cuộc sống, nếu hiện nay, bạn chịu dành thì gìơ lúc chúng hãy còn thơ dại, để thật sự thương yêu chúng, nhờ đó, chúng được an lòng để vững tin vào cuộc đời. Những bậc làm cha nên dành thì giờ đưa con trai đi chỗ nọ chỗ kia, tỏ ra quan tâm chú ý đến chúng, chơi đùa với chúng, vui cười với chúng và làm nhiều cách khác nữa để chứng tỏ lòng yêu thương trìu mến chúng; những bậc làm mẹ cũng cần làm như vậy đối với con gái. Các bạn chỉ có được chúng mấy năm ngắn ngủi mà thôi, và rất có thể là chẳng bao lâu nữa, khi phải nhìn lại, các bạn sẽ hối tiếc vì đã không làm được nhiều việc như vậy cho chúng. Vậy hãy bắt tay vào việc ngay đi, khi bạn có thể làm đựơc. Cha mẹ tạo được cả một cuộc đời cho con cái mình quan trọng hơn là đem được sự sống đến cho chúng. Tình yêu thương cần được tiêu pha rộng rãi cho từng người một trong gia đình, như Simon đã vạch rõ bằng những lời lẽ sau đây: “Chúng ta là chồng, phải tán thưởng những gì vợ ta làm. Các bà rất cần được chúng ta khen ngợi tán thưởng càng nhiều hơn nữa. Bậc làm cha làm mẹ cũng phải học tập để biết khen ngợi tán thưởng các con cái mình. Và phải cẩn thận đừng tỏ ra là mình ích kỷ; nhưng người làm cha làm mẹ có thể dạy dỗ con cái biết khen ngợi tán thưởng cha mẹ chúng. Dĩ nhiên lý tưởng về việc “hãy tiêu pha rời rộng những lời khen” là một phần trong câu Kinh Thánh ngắn sẽ tạo ra được một nền móng tốt cho một gia đình hạnh phúc, đó là: “Hãy ăn ở với nhau cách nhân từ (đối xử tốt, tử tế với nhau)”. Nơi nào tình thương yêu và tán thưởng có nhiều trong gia đình, thì hậu quả có ít người lớn không thích nghi hoá được với xã hội. Phân nửa những điều xấu xa trên thế giới có thể được chữa trị kiến hiệu bằng tình thương, thái độ hoà nhã tử tế, sự thông cảm ưu ái nhau, việc bộc lộ sâu xa ý thức biết tán thưởng lẫn nhau, và việc biết sửa phạt phải lẽ trong gia đình khi cần thiết. Tình bạn giữa hai vợ chồng có tầm quan trọng lớn lao trong một cuộc hôn nhân hạnh phúc và ổn định. Về khía cạnh này của đời sống lứa đôi, Blood and Wolfe có nói về người đàn ông: “Vợ trở thành người bạn tốt nhất của chồng.. Tình bạn đã nảy sinh để trở thành khía cạnh có giá trị duy nhất trong hôn nhân”. Theo một dự án nghiên cứu về gia đình của Blood and Wolfe, người ta thấy rằng nguyên nhân các bất đồng ý kiến giữa vợ chồng phần lớn đều do các trường hợp sau đây được liệt kê theo tỷ lệ phần trăm: trẻ con chịu trách nhiệm 16 phần trăm về những bất đồng ý kiến; sự giải trí tiêu khiển 16 phần trăm; các vấn đề cá nhân, 14 phần trăm, trong khi tiền bạc bị cho gây ra 24 phần trăm những chuyện bất hòa. Trong cuộc nghiên cứu này, tình dục được liệt kê thấp hơn tất cả các trường hợp trên vì một lý do nào đó. Thông thường, nó bị kể là lý do có tỷ lệ phần trăm cao nhất đã tạo ra bất hoà. Công trình nghiên cứu này cho thấy nếu cha mẹ sẵn sàng cùng đi một đoạn đường thứ hai nữa với con cái mình theo tinh thần Cơ Đốc giáo, thì họ có thể hạ tỷ lệ các bất đồng ý kiến rất thấp. Phần lớn con số trung bình này được tìm thấy cả nơi các gia đình Cơ Đốc nhân lẫn những người không có đạo, và nếu con số trung bình này được nhận thấy trong hoàn cảnh đó, thì nơi các Cơ Đốc nhân biết sống đạo nó còn có thể được hạ thấp hơn nữa. Tình bạn vô cùng quan trọng cho đời sống lứa đôi có hạnh phúc, vợ chồng không nên để cho nó bị tổn hại do các bất đồng ý kiến vô ích về các vấn đề nhỏ mọn tầm thường. Cũng một công trình nghiên cứu ấy cũng nhận thấy trẻ con gây ảnh hưởng mạnh mẽ trên cha mẹ chúng. “Tuy trẻ con có thể làm suy giảm các tiêu chuẩn sinh hoạt và khả năng kết bạn của đôi vợ chồng ngoài gia đình, chúng siết chặt thêm các mối dây thông cảm nhau và thương yêu nhau giữa hai vợ chồng”. Công trình nghiên cứu này cũng cho thấy các bà mẹ của trẻ ở lứa tuổi chưa đi học gần hài lòng với tình yêu họ nhận được từ các đức long quân, hơn bất cứ một giai đoạn nào khác trong đời sống lứa đôi giữa họ. Sở dĩ như vậy, có lẽ vì trong giai đoạn ấy, con cái đã thu hút nhiều chú ý và tình thương của người mẹ. Những người làm chồng phải biết rõ nhu cầu đó hầu cố gắng hợp tác với vợ. Nhiều khi trong việc cưới vợ lấy chồng, hai đàng chưa thật sự yêu nhau khi mới lấy nhau. Vấn đề là trong tất cả các gia đình có hạnh phúc, mỗi người đều biết học hỏi để ngày càng yêu nhau hơn khi cùng chung sống với nhau. Trung tâm Tư vấn Cơ Đốc giáo Narramore lừng danh ở Rosemead, California, nhận được nhiều ngàn lá thư của những người cần được giúp đỡ về nhiều việc khác nhau. Dưới đây là một bức thư minh hoạ một đôi vợ chồng có thể học tập yêu nhau như thế nào sau khi đã chung sống rất lâu với nhau, chỉ cần họ chịu cố gắng làm như vậy. Vì đây là một bức thư do một phụ nữ viết, cũng rất có thể do một người đàn ông viết nữa. Bác sĩ Narramore thân mến, Ông vẫn thường nói về những người hấp tấp lập gia đình mà chưa hề yêu nhau, đồng thời, cảnh cáo giới trẻ đối với sai lầm ấy. Nhưng nó chẳng giúp được gì nhiều cho những người đã lấy nhau mà chưa hề yêu nhau. Tôi đã lấy chồng vì muốn thoát ly gia đình; thế nhưng hiện nay hai mươi ba năm sau đó, tôi đang có một cuộc hôn nhân và một gia đình hạnh phúc. Tôi muốn chia xẻ giải pháp của tôi cùng ông.