Các sách về phương pháp nghiên cứu Kinh Thánh bằng Anh Ngữ có rất nhiều, tuy nhiên loại sách này bằng tiếng Việt rất hiếm hoi.

Tựa
1. Dẫn Nhập: Nhu Cầu Giải Nghĩa
2. Công Cụ Căn Bản: Một Bản Dịch Tốt
3. Các Thư Tín: Tập Suy Nghĩ Theo Bối Cảnh
4. Các Thư Tín: Những Vấn Đề Giảng Kinh
5. Những Truyện Ký Trong Cựu Ước: Cách Sử Dụng Thích Hợp
6. Sách Công Vụ Các Sứ Đồ: Vấn Đề Tiền Lệ Lịch Sử
7. Các Sách Phúc Âm: Một Câu Chuyện, Nhiều Khía Cạnh
8. Những Dụ Ngôn: Bạn Có Nắm Được Luận Điểm?
9. Luật pháp: Những Qui Ước Cho Y-sơ-ra-ên.
10. Sách Tiên Tri: Tuân Hành Giao Ước Trong Y-sơ-ra-ên
11. Thi Thiên: Lời Cầu Nguyện Của Y-sơ-ra-ên Và Của Chúng Ta
12. Sự Khôn Ngoan: Xưa và Nay
13. Khải Thị: Những Hình Ảnh Phán Xét và Hi Vọng
Phụ lục : Thẩm Định và Sử Dụng Các Sách Giải Nghĩa

Tựa
Các sách về phương pháp nghiên cứu Kinh Thánh bằng Anh Ngữ có rất nhiều, tuy nhiên loại sách này bằng tiếng Việt rất hiếm hoi. Nhu cầu cần có một cuốn sách căn bản nhằm giúp các tôi tớ và con cái Chúa nghiên cứu Lời Chúa cách đúng đăn và có phương pháp đã thúc đẩy chúng tôi ấn hành cuốn Nguyên Tắc Đọc Và Hiểu Kinh Thánh này.

Nguyên Tắc Đọc Và Hiểu Kinh Thánh được dịch từ cuốn How to Read the Bible for All Its Worth của hai tác giả Gordon D. Fee và Douglas Stuart do nhà xuất bản Zondervan Publishing House ấn hành (1993). Trọng tâm của quyển sách nhằm giúp người đọc nắm vững các thể văn (genres) khác nhau được dùng để viết Kinh Thánh, mặc dầu nhiều vấn đề khác cũng được đề cập. Các tác giả tuần tự đề cập đến mười loại thể văn trong Kinh Thánh để giúp người đọc nhận ra những khác biệt giữa các thể văn này, một điều rất quan trọng ảnh hưởng đến cách hiểu Kinh Thánh của chúng ta.

Là những giáo sư dạy tại chủng viện và thường xuyên giảng Lời Chúa trong các Hội Thánh, các tác giả không chỉ muốn chúng ta biết Nguyên Tắc Đọc Và Hiểu Kinh Thánh nhưng còn phải vâng giữ những gì Kinh Thánh dạy. Tác giả muốn giúp chúng ta đi từ giải kinh (exegesis ) đến giảng kinh (hermeneutics ), tưc đi từ ý nghĩa nguyên thủy của bản văn đến ý nghĩa hiện tại, từ chỗ “thời xưa, nơi ấy” của đoạn kinh văn nguyên thủy đến hoàn cảnh sống “hiện nay, nơi đây” của chúng ta. Vì thế, hiểu Kinh Thánh, các tác giả nhấn mạnh đến hai công tác. Thứ nhất là tìm ra ý nghĩa nguyên thủy của đoạn kinh văn, công tác này được gọi là giải kinh (exegesis ). Thứ hai là phải học lắng nghe ý nghĩa đó trong từng bối cảnh mới mẻ và khác nhau của thời đại chúng ta, công tác này được gọi là giảng kinh (hermeneutics ). Trong cách dùng cổ điển, từ ngữ giảng kinh (hermeneutics ) bao gồm cả hai công tác, nhưng trong sách này, các tác giả dùng từ giảng kinh theo nghĩa hẹp này. Thực hiện cả hai công tác trên phải là mục tiêu của việc đọc Kinh Thánh. Tuy nhiên, thay vì đưa ra những quy luật, các tác giả chỉ muốn nêu lên những hướng dẫn và gợi ý nhằm giúp chúng ta trong việc nghiên cứu Kinh Thánh.

Người ta thường nói chẳng cần trình độ học vấn chủng viện mới hiểu được Kinh Thánh. Điều đó đúng. Tuy nhiên việc nghiên cứu cẩn thận và có phương pháp sẽ giúp chúng ta hiểu Lời Chúa cách chính xác hơn và áp dụng cách đúng đắn hơn. Để đáp ứng nhu cầu nghiên cứu Lời Chúa của các tôi con Chúa, Viện Thần Học Việt Nam dịch và ấn hành tập Nguyên Tắc Đọc Và Hiểu Kinh Thánh này với sự cho phép của nhà xuất bản Zondervan. Vì đây là loại sách nghiên cứu và có những từ ngữ khó dịch sang tiếng Việt nên chắc chắn chúng tôi không thể tránh khỏi những khiếm khuyết trong bản dịch này. Chúng tôi ước mong nhận được sự đóng góp ý kiến của tất cả quí vị để trong lần tái bản tới chúng ta có được một bản dịch hoàn chỉnh hơn. Xin chân thành cảm tạ quí vị.
Viện Thần Học Việt Nam
Tháng 10, 2002

Dẫn Nhập: Nhu Cầu Giải Nghĩa

Chúng ta thường gặp nhiều người phát biểu đầy tự tin rằng “Bạn cần gì phải giải nghĩa Kinh Thánh; chỉ cần đọc và làm theo thôi.” Thường thì nhận định như thế ngụ ý sự phản đối của những tín đồ chống lại các học giả “chuyên nghiệp,” mục sư, giáo sư hay giáo viên Trường Chúa Nhật, vì khi “giảng giải” dường như muốn lấy Kinh Thánh khỏi tay các tín hữu bình thường. Đó là cách để họ bảo rằng Kinh Thánh không phải là một bộ sách tối nghĩa, khó hiểu. Họ cho rằng “chỉ cần chút ít thông minh thôi cũng có thể đọc và hiểu được Kinh Thánh. Vấn đề là quá nhiều nhà truyền đạo và giáo sư đào xới lung tung khiến cho Kinh Thánh vốn rõ ràng dễ hiểu nay thành ra tối tăm mù mịt.”
Lời phản đối trên phản ánh sự thật. Chúng tôi biết rằng Cơ Đốc nhân phải đọc, tin và vâng theo Kinh Thánh. Chúng tôi cũng đồng ý rằng Kinh Thánh không thể là một quyển sách tối nghĩa, khó hiểu nếu được đọc và nghiên cứu đúng phương pháp. Thật vậy, vấn đề nghiêm trọng nhất mà người ta gặp khi nghiên cứu Kinh Thánh vốn không phải do thiếu hiểu biết, nhưng do họ hiểu quá rõ hầu hết các sự việc! Chẳng hạn với câu “Phàm làm việc gì chớ nên lằm bằm và lưỡng lự” (Phi Pl 2:14) vấn đề không phải là hiểu, nhưng là làm theo – phải thực hành nó.

Chúng tôi cũng đồng ý rằng nhà truyền đạo hoặc giáo sư thường đào trước rồi mới nhìn sau, do đó đã lấp đi phần ý nghĩa rõ ràng của đoạn kinh văn thường vốn nằm ngay trên bề mặt. Chúng tôi xin nói trước và sẽ còn nhắc lại nữa – rằng mục tiêu của việc giải nghĩa đúng đắn không phải là tìm cho ra điểm độc đáo; không ai có thể khám phá ra điều mà chưa từng có ai thấy trước đó.

Giải nghĩa mà cứ chú trọng, hoặc đi tìm cái độc đáo, thường có thể là do kiêu ngạo (một nỗ lực muốn tỏ ra “ta đây khôn khéo tài giỏi vượt bậc” hơn những người còn lại trên đời), một sự hiểu biết thuộc linh sai lầm (Kinh Thánh chứa đựng nhiều chân lý sâu nhiệm đang chờ đợi người có sự mẫn cảm thuộc linh và cái nhìn sáng suốt, thông tuệ khám phá), hoặc rơi vào ý thích (với mục đích hậu thuẫn cho một thiên kiến thần học, nhất là khi giải nghĩa những đoạn kinh văn có vẻ như chống lại với thiên kiến ấy). Những cách lý giải độc đáo – có một không hai – thường là sai lầm. Nói như thế không có nghĩa là bảo rằng việc hiểu đúng một bản văn sẽ dường như không có vẻ độc đáo đối với người mới nghe nó lần đầu tiên, nhưng có nghĩa rằng tìm điểm độc đáo không phải là mục đích của công tác giải nghĩa.

Mục tiêu của việc giải nghĩa tốt rất đơn giản: Tìm ra “ý nghĩa rõ ràng của đoạn kinh văn.” Một tri thức được soi sáng là yếu tố quan trọng nhất trong công tác giải nghĩa. Trắc nghiệm dành cho một phần giải nghĩa tốt, là nó có bộc lộ ý nghĩa đúng của đoạn kinh văn hay không. Do đó, giải nghĩa đúng sẽ làm cho tâm trí ta cảm thấy nhẹ nhõm, thoải mái.

Nhưng nếu vấn đề giải nghĩa chỉ là đi tìm ý nghĩa thật mà thôi, thì tại sao lại cần phải giải nghĩa? Tại sao không phải là chỉ đọc mà thôi? Chẳng phải chỉ cần đọc cũng có thể nắm được ý nghĩa rõ ràng đó hay sao? Ở một phương diện điều này đúng. Nhưng về mặt xác thực hơn, thì lý luận như thế vừa ngây thơ vừa không thực tế bởi hai yếu tố sau đây: bản tính của người đọc và bản chất của Kinh Thánh.
Người Đọc Là Người Giải Nghĩa

Lý do đầu tiên mà ta cần học cách giải nghĩa là vì người đọc đồng thời cũng là người giải nghĩa cho dù có muốn hay không. Nghĩa là phần đông chúng ta cho rằng hễ khi nào chúng ta đọc, thì chúng ta cũng hiểu những gì mình đang đọc. Chúng ta có khuynh hướng nghĩ rằng mình hiểu được ý định của Thánh Linh hay của tác giả. Tuy nhiên, chúng ta luôn đưa mình vào đoạn kinh văn bằng kinh nghiệm, văn hóa, sự hiểu biết về chữ nghĩa và ý tưởng của chính mình. Mặc dầu không cố ý nhưng nhiều khi những điều mà chúng ta đưa vào đoạn kinh văn dẫn chúng ta đi lạc, hoặc khiến chúng ta thấy toàn là những tư tưởng ngoại lai.

Chẳng hạn khi một người trong nền văn hóa của chúng ta nghe tiếng “thập tự giá,” do ảnh hưởng của nhiều thế kỷ nghệ thuật Cơ Đốc, tự nhiên nghĩ ngay đến chữ thập của người La Mã (=), tuy nó rất ít giống với hình dạng cây thập tự của Chúa Giê-xu, có lẽ có hình dạng giống như chữ “T”. Phần đông các tín hữu Tin Lành và Công Giáo khi đọc phần Kinh Thánh đề cập đến một Hội Thánh đang thờ phượng đều tự động hình dung ra một nhóm người ngồi trên những chiếc “ghế dài” trong một ngôi nhà giống như họ. Khi Phao-lô viết (bản KJV) “Chớ chăm nom về xác thịt mà làm cho phỉ lòng dục nó” (RoRm 12:14), nhiều người trong nền văn hóa nói tiếng Anh dễ dàng nghĩ “xác thịt” có nghĩa là “thân xác,” do đó cho rằng Phao-lô đang nói về “sự ham muốn thể xác.”

Nhưng từ ngữ “xác thịt” theo cách dùng của Phao-lô rất ít khi đề cập đến thân thể – và trong câu Kinh Thánh này thì gần như chắc chắn là nó đã không được dùng theo nghĩa đó – nhưng ám chỉ một căn bệnh thuộc linh, một chứng bệnh của đời sống thuộc linh gọi là “bản tính tội lỗi.” Do đó, dù không cố ý, người đọc cũng đang giải thích điều mình đọc, và rủi thay lại quá thường giải nghĩa sai.

Điều này đưa chúng ta đến chỗ lưu ý thêm rằng trong bất kỳ trường hợp nào, người đọc một quyển Kinh Thánh Anh ngữ cũng đều buộc phải giải nghĩa. Tự bản dịch đã là một hình thức giải nghĩa. Cho dù bạn dùng bản dịch nào thì quyển Kinh Thánh của bạn đối với bạn là khởi điểm nhưng thật ra là kết quả công tác của nhiều học giả. Các dịch giả thường phải lựa chọn giữa nhiều nghĩa, và việc lựa chọn của họ sẽ ảnh hưởng đến cách bạn hiểu.

Vì vậy các dịch giả giỏi phải lưu tâm vấn đề khác biệt trong ngôn ngữ. Đó không phải là một công việc dễ dàng. Chẳng hạn như trong RoRm 13:14, chúng ta nên dịch là “xác thịt” (như trong các bản KJV, RSV, NRSV, NASB, vv…) vì đây chính là từ ngữ mà Phao-lô đã dùng, rồi một người giải nghĩa chú thích cho độc giả biết rằng từ ngữ “xác thịt” ở đây không có nghĩa là “thân xác”? Hay chúng ta phải “giúp đỡ” người đọc và dịch là “bản tính tội lỗi” (như trong các bản NIV, GNB, vv…) vì đây chính là điều Phao-lô muốn nói? Chúng tôi sẽ đề cập vấn đề này chi tiết hơn trong chương sau. Như vậy tưởng cũng đủ chứng tỏ rằng việc dịch thuật tự nó đã có sẵn công tác giải nghĩa.
Cứ nhìn vào một Hội Thánh hiện nay ta có thể thấy rõ rằng không phải ai cũng hiểu được những câu Kinh Thánh xem ra rất rõ nghĩa. Có người dựa vào câu ICo1Cr 14:34-35 buộc phụ nữ phải nín lặng trong nhà thờ nên cấm phụ nữ nói tiếng lạ và nói tiên tri. Có người dựa vào các câu ICo1Cr 11:2-16 chủ trương phụ nữ có quyền cầu nguyện, có quyền nói tiên tri trong nhà thờ với điều kiện là phải trùm đầu lại. Những cách giải thích trái ngược này lại nằm trong cùng một văn cảnh với nhau, đoạn Kinh Thánh nói về sự “im lặng.” Lại có người tuyên bố “Kinh Thánh rõ ràng dạy” rằng phải dìm toàn thân xuống nước khi làm báp-têm; những người này không chấp nhận một hình thức báp-têm nào khác. Một số chủ trương Kinh Thánh cho phép làm báp-têm cho trẻ con, trong khi có người bảo rằng Kinh Thánh chỉ cho phép làm báp-têm cho người lớn. Có người giảng dạy rằng khi tín hữu được cứu rỗi thì có thể “cầm chắc sự cứu rỗi ấy đời đời.” Nhưng có người lại giảng rằng tín hữu có thể “đánh mất sự cứu rỗi” của mình. Tất cả những người nói trên ai cũng mạnh mẽ xác nhận rằng mình làm đúng theo “ý nghĩa rõ ràng” trong Kinh Thánh. Ngay cả hai tác giả của quyển sách này cũng có vài ý kiến bất đồng về một số câu Kinh Thánh mặc dầu cả hai chúng tôi đều đọc cùng một bản dịch Kinh Thánh và đều cố gắng vâng theo những gì mà phần Kinh Thánh dạy “rõ ràng.”
Ngoài những điều khác nhau có thể nhận thấy ngay giữa vòng “các tín hữu tin Kinh Thánh” ta còn thấy đủ loại những điều lạ lùng khác. Chẳng hạn người ta thường có thể nhận ra ngay các giáo phái sùng tín, ngoài Kinh Thánh ra họ còn có thêm cả uy quyền. Nhưng không phải tất cả các giáo phái sùng tín đều như thế cả; trong nhiều trường hợp, người ta đều xuyên tạc chân lý bằng cách chọn một số câu ngay trong Kinh Thánh. Mọi tà giáo hoặc tập tục hành đạo mà người ta có thể tượng tượng ra, từ thuyết Arianism (phủ nhận thần tánh của Chúa Cứu Thế) của các Chứng Nhân Giê-hô-va và giáo phái Con Đường (The Way), đến việc làm phép báp-tem cho người chết giữa các tín đồ Mormons, cho đến việc bắt rắn giữa các giáo phái Appalachian, đều rêu rao là đã lấy Kinh Thánh làm nền tảng.

Ngay giữa những người chính thống vẫn có nhiều ý niệm lạ lùng muốn được chấp nhận. Chẳng hạn một trong những phong trào đang gây náo loạn trong giới tín hữu Cải Chánh Hoa Kỳ, đặc biệt là giữa những người theo phong trào ân tứ (Charismatics), cái gọi là Phúc Âm của thịnh vượng và sức khỏe. “Phúc Âm” của Đức Chúa Trời là muốn bạn được thạnh vượng về mặt tài chánh và vật chất! Một trong những người bênh vực cho “phúc âm” này tranh luận “ý nghĩa rõ ràng” của Kinh Thánh ở phần đầu quyển sách ông ta viết, tuyên bố rằng ông ta đặt Lời Đức Chúa Trời trước nhất trong suốt công trình nghiên cứu của mình. Ông ta cho rằng điều quan trọng không phải là những gì chúng ta nghĩ là Kinh Thánh dạy, nhưng là điều thật sự Lời Đức Chúa Trời dạy. “Ý nghĩa rõ ràng” là điều mà ông ta theo đuổi. Nhưng người ta thắc mắc “ý nghĩa rõ ràng” thật ra là gì khi lập luận rằng ý chỉ của Đức Chúa Trời là sự thịnh vượng tài chánh được rút ra từ IIIGi 3Ga 1:2: “Hỡi kẻ rất yêu dấu, tôi cầu nguyện cho anh được thạnh vượng trong mọi sự và được khỏe mạnh phần xác anh cũng như đã được thạnh vượng về phần linh hồn anh vậy” (KJV) – phần Kinh Thánh mà thật ra chẳng có liên hệ gì với sự thịnh vượng về tài chánh cả. Một thí dụ khác giải thích ý nghĩa rõ ràng từ câu chuyện của chàng thanh niên giàu có (Mac Mc 10:17-22) theo cách hoàn toàn trái ngược với “ý nghĩa thật”, rồi gán lời giải nghĩa đó đến từ Đức Thánh Linh. Ta có thể thắc mắc rằng có cần gì phải tìm tòi mới thấy được ý nghĩa rõ ràng hay không; có lẽ ý nghĩa rõ ràng chỉ là điều mà tác giả như thế muốn gán cho phần Kinh Thánh để hậu thuẫn ý niệm mà ông ta yêu thích.

Sau khi đã trình bày những điểm khác biệt cả bên trong lẫn bên ngoài Hội Thánh và ngay cả giữa vòng các học giả được xem là biết “luật,” chúng ta không còn ngạc nhiên nữa khi có một số người lý luận rằng chẳng cần giải nghĩa, chỉ cần đọc mà thôi. Nhưng cách chọn lựa như vậy không đúng. Giải pháp cho việc giải nghĩa tồi không phải là chẳng cần giải nghĩa, mà là giải nghĩa đúng dựa trên các hướng dẫn thường thức.

Tác giả cuốn sách này không hề có ảo vọng rằng chỉ nhờ đọc và làm theo các chỉ dẫn của sách thì mọi người đều sẽ nhất trí “ý nghĩa rõ ràng,” ý nghĩa chúng tôi đã tìm ra! Điều chúng tôi mong ước là nâng cao tính nhạy bén của độc giả khi gặp những vấn đề cụ thể trong từng thể văn, để biết tại sao có những chọn lựa khác nhau, và làm thế nào để suy xét theo tri thức thông thường, nhất là để có thể phân biệt được giữa cách giải nghĩa tốt và không được tốt lắm – cũng như biết được nguyên nhân nào dẫn đến điều đó.
Bản Chất của Kinh Thánh

Một lý do quan trọng cần phải giải nghĩa Kinh Thánh là bản chất của chính Kinh Thánh. Từ xưa Hội Thánh đã hiểu bản chất của Kinh Thánh giống như cách họ hiểu về thân vị của Đấng Christ – Kinh Thánh vừa mang nhân tánh vừa mang thần tánh. Giáo sư George Ladd có viết: “Kinh Thánh là Lời của Đức Chúa Trời được ban truyền bằng lời lẽ (của loài người) trong lịch sử.” Chính bản chất kép của Kinh Thánh đòi hỏi chúng ta phải giải nghĩa.

Vì Kinh Thánh là Lời Đức Chúa Trời nên có tính phù hợp vĩnh hằng (eternal relevance); Kinh Thánh truyền phán cho cả nhân loại thuộc mọi thời đại và mọi nền văn hóa. Kinh Thánh là Lời Đức Chúa Trời nên chúng ta phải lắng nghe – và vâng theo. Tuy nhiên vì Đức Chúa Trời chọn phán Lời Ngài qua lời lẽ loài người trong lịch sử, nên tất cả các sách trong Kinh Thánh đều mang đặc trưng lịch sử; đều chịu sự chi phối của ngôn ngữ, thời gian và văn hóa khi nó được viết ra (trong một số trường hợp cũng bị lịch sử truyền khẩu đã có từ trước chi phối). Mối “căng thẳng” giữa tính phù hợp vĩnh hằng và đặc trưng lịch sử đòi hỏi Kinh Thánh phải được giải nghĩa.

Dĩ nhiên có một số người cho rằng Kinh Thánh chỉ là quyển sách của con người, rằng nội dung của nó chỉ là lời lẽ của con người trong lịch sử. Với họ công tác giải nghĩa chỉ gói gọn trong việc tìm hiểu lịch sử mà thôi. Họ chỉ quan tâm đến các ý niệm tôn giáo của người Do Thái, Chúa Giê-xu, hay Hội Thánh đầu tiên như trường hợp Cicero hoặc Milton. Do đó, họ xem công tác giải nghĩa chỉ thuần túy lịch sử. Những lời này có ý nghĩa gì đối với những người đã viết chúng? Họ nghĩ gì về Đức Chúa Trời? Họ hiểu về chính họ như thế nào?

Mặt khác, có những người chỉ chú trọng đến tính phù hợp vĩnh hằng của Kinh Thánh mà thôi. Vì đó là Lời Đức Chúa Trời, họ có khuynh hướng nghĩ rằng Kinh Thánh là bộ sưu tập những lời phán truyền phải được tin, những mệnh lệnh phải được tuân thủ – mặc dầu người ta luôn cố chọn lựa giữa những lời phán truyền và mệnh lệnh đó. Chẳng hạn nhiều Cơ-đốc nhân dựa trên PhuDnl 22:5 (“người nữ không được phép mặc quần áo của người nam”) để lý luận theo nghĩa đen rằng phụ nữ không nên mặc quần tây hoặc quần soóc. Nhưng chính những người đó lại ít khi chịu hiểu theo nghĩa đen các mệnh lệnh khác trong cùng khúc Kinh Thánh, bao gồm việc phải xây một bao lơn chung quanh nóc nhà mình (câu 8), chớ trồng hai loại hạt giống trong cùng một vườn nho (câu 9) và phải kết tua nơi bốn chéo áo choàng của mình mặc (câu 12).

Tuy nhiên, Kinh Thánh không phải là một loạt các phán truyền và mệnh lệnh, nó không chỉ đơn giản là một bộ sưu tập “Những lời phán của Tổng Thống Thượng Đế,” như thể Ngài từ trên trời nhìn xuống chúng ta và phán rằng: “Nầy, các người ở dưới kia, hãy học tập các chân lý này: Thứ nhất, chỉ có một Đức Chúa Trời và đó là ta. Thứ hai, Ta là Đấng Tạo Hóa của muôn vật kể cả con người” – và cứ thế tiếp tục đến lời phán truyền số 7.777 và mệnh lệnh số 777.

Dĩ nhiên, các lời phán ấy đều đúng; chúng ở trong Kinh Thánh (tuy không hoàn toàn giống với hình thức vừa trình bày). Thật ra một quyển sách như thế có thể làm cho nhiều việc trở thành dễ dàng hơn. Nhưng may thay, đó không phải là cách mà Đức Chúa Trời đã chọn để phán với chúng ta. Thay vào đó, Ngài đã ban các chân lý đời đời của Ngài trong nhiều hoàn cảnh và biến cố cá biệt của lịch sử loài người. Đây cũng là điều mà chúng ta có thể đặt hi vọng. Chính vì Đức Chúa Trời đã chọn truyền phán trong bối cảnh lịch sử của nhân loại, nên chúng ta có thể mạnh dạn tin rằng những lời này cũng sẽ được nhắc đi nhắc lại trong lịch sử “hiện tại” của chính chúng ta, cũng như trong suốt lịch sử Hội Thánh.

Kinh Thánh mang tính chất của con người là điều khích lệ nhưng cũng là thách thức đối với chúng ta, và đó là lý do để chúng ta cần phải giải nghĩa. Có hai điều cần lưu ý ở đây:

1. Được phán qua những con người có thật, dưới nhiều hoàn cảnh khác nhau, trãi suốt giai đoạn hơn 1.500 năm, Lời Đức Chúa Trời được thể hiện bằng ngôn ngữ và hình thức của những người ấy, trong hoàn cảnh và cảnh văn hóa của các thời đại của họ. Nghĩa là, Lời Đức Chúa Trời cho chúng ta trước nhất là Lời mà Ngài đã phán với họ. Họ chỉ nghe được chúng khi chúng được phán qua các biến cố và bằng ngôn ngữ mà họ có thể hiểu được. Sự khác biệt về thời gian và nhiều khi cả về tư tưởng là vấn đề chúng ta phải đối diện. Đây là nguyên nhân chính mà ta cần học giải nghĩa Kinh Thánh. Nếu Lời của Đức Chúa Trời dạy chúng ta về vấn đề phụ nữ mặc y phục của đàn ông, hay người ta phải xây bao lơn chung quanh mái nhà mình, thì trước hết chúng ta cần phải biết nó nói gì với cho những thính giả đầu tiên – và tại sao.

Như thế, công tác giải nghĩa liên quan đến người học/người đọc ở hai cấp bậc. Thứ nhất, ta phải nghe Lời mà họ đã nghe; phải tìm hiểu điều đã được truyền phán lúc ấy và ở đó. Thứ hai, ta phải học lắng nghe những lời ấy cho chúng ta hiện nay và tại đây. Chúng tôi sẽ nói thêm về hai công tác ấy ở phần dưới đây.

2. Một trong những phương diện quan trọng nhất trong sự tham gia của con người để hình thành Kinh Thánh là Đức Chúa Trời đã chọn sử dụng hầu như mọi cách thức truyền thông khả hữu: tường thuật lịch sử, gia phả, biên niên sử, các hình thức luật pháp, các hình thức thi ca, châm ngôn, sấm truyền tiên tri, câu đố, kịch tuồng, tiểu sử, ẩn dụ, thư tín, bài giảng và hình thức khải thị để truyền đạt Lời Ngài cho loài người trong mọi hoàn cảnh.

Để giải nghĩa đúng cái “lúc ấy và ở đó” của các đoạn kinh văn, ngoài việc phải biết một số quy luật tổng quát áp dụng cho mọi từ ngữ Kinh Thánh, ta còn phải học những quy luật đặc biệt áp dụng cho từng thể văn ấy nữa. Còn cách Đức Chúa Trời truyền đạt Lời Ngài cho chúng ta “hiện nay và tại đây” thường khác hơn. Ví dụ, chúng ta cần biết cách một thi thiên, là hình thức thường được dùng để thưa chuyện với Đức Chúa Trời, đóng vai trò như Lời Đức Chúa Trời cho chúng ta và thi thiên khác thế nào với “luật pháp,” thường được phán cho những người sống trong các nền văn hóa đã không còn hiện hữu. “Những luật” đó phán với chúng ta thế nào, và chúng khác với các “luật” đạo đức vốn luôn luôn có giá trị trong mọi hoàn cảnh ra sao? Đây là những câu hỏi mà tính chất kép của Kinh Thánh đang đặt trên chúng ta.

Công Việc Đầu Tiên: Giải Kinh

Công việc đầu tiên của người giải nghĩa được gọi là giải kinh (exegesis). Giải kinh là việc nghiên cứu Kinh Thánh cách cẩn thận, có hệ thống để khám phá dụng ý nguyên thủy. Đây là công tác mang tính lịch sử, cố gắng đặt mình làm những thính giả đầu tiên để lắng nghe Lời nhằm tìm ra dụng ý nguyên thủy qua ngôn từ Kinh Thánh. Công tác này thường cần sự giúp đỡ của “chuyên gia” để hiểu rõ ngôn ngữ của đoạn kinh văn trong bối cảnh nguyên thủy của chúng. Tuy nhiên, ta không cần phải làm một chuyên gia để có thể giải kinh đúng.
Thật vậy, ai cũng có thể giải kinh cả. Chủ yếu bạn có phải là một nhà giải kinh giỏi hay không. Chẳng hạn, bao nhiêu lần bạn đã từng nghe hay nói rằng: “Điều Chúa Giê-xu muốn nói ở đây là…” hoặc “Vào thời đó, họ thường hay…”? Những câu phát biểu này mang hình thức giải kinh. Phần lớn mục đích của chúng là để giải thích những điểm khác nhau giữa “họ” với “chúng ta” – ví dụ tại sao chúng ta không xây bao lơn chung quanh mái nhà mình, hoặc nêu lý do tại sao chúng ta lại dùng đoạn văn bằng một lối khác hoặc mới mẻ – tại sao cái bắt tay lại thường được thay thế cho “cái hôn thánh.” Cả khi những ý tưởng như thế không được nói ra, thì chúng vẫn luôn được thực hành như một kỷ năng thông thường vậy.

Tuy nhiên, vấn đề thường là (1) giải kinh như vậy lắm khi có tính quá chọn lọc, (2) các nguồn tài liệu tra cứu thường không do chính các “chuyên gia” biên soạn, nghĩa là chúng vốn chỉ là các nguồn tài liệu cấp hai mà chúng lại sử dụng các nguồn tài liệu cấp hai khác hổ trợ, hơn là các nguồn tài liệu đầu tiên. Sau đây là một số điều cần đề cập liên quan đến những điều trên:

1. Mặc dầu đôi khi ta giải kinh, và hầu như luôn giải kinh đúng, ta vẫn có khuynh hướng làm điều đó chỉ khi có vấn đề rõ rệt giữa các đoạn kinh văn và nền văn hóa hiện đại. Dĩ nhiên đó là điều ta phải làm khi gặp những đoạn kinh văn như vậy, nhưng chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng đó là bước đầu tiên khi đọc BẤT KỲ một đoạn kinh văn nào. Thoạt tiên, đó không phải là điều dễ làm, nhưng học suy nghĩ theo cách giải kinh sẽ giúp ta hiểu rõ và làm ta cảm thấy thích thú hơn khi đọc Kinh Thánh chớ chưa nói đến việc nghiên cứu. Tuy nhiên, cần ghi nhớ rằng học suy nghĩ theo cách giải kinh không phải là công tác duy nhất; nó mới chỉ là công việc đầu tiên thôi.

Điều nguy hiểm khi giải kinh “chọn lọc” là ta thường đưa các tư tưởng lạ của riêng mình vào trong đoạn kinh văn, do đó làm méo mó hoặc biến dạng điều Đức Chúa Trời muốn dạy dỗ. Ví dụ, một nhà truyền giáo nổi tiếng vừa gởi thư cho chúng tôi, khuyên chúng tôi không nên đi dự hội nghị với một người nổi tiếng khác, vì người ta nghi ngờ tư tưởng thần học của ông ta. Nhà truyền giáo kia trích dẫn câu Kinh Thánh trong ITe1Tx 5:22: “Bất cứ việc gì tựa như điều ác, thì phải tránh đi” để khuyên chúng tôi đừng đi dự hội nghị. Nếu như người anh em kia biết đọc Kinh Thánh theo cách giải kinh, chắc hẳn ông đã không giải thích câu Kinh Thánh theo cách đó. Đây là lời cuối của thánh Phao-lô trong phân đoạn viết cho người Tê-sa-lô-ni-ca liên hệ đến những lời nói ân tứ trong cộng đồng. Phao-lô nói rằng “chớ khinh dể các lời tiên tri, nhưng hãy suy xét mọi việc, giữ chặt điều lành, nhưng tránh xa mọi hình thức xấu xa gian ác.” Việc “tránh điều ác” ở đây liên quan đến “lời tiên tri” mà khi được suy xét ta biết không phải đến từ Đức Thánh Linh. Làm cho phần Kinh Thánh này có ý nghĩa khác với điều Chúa muốn dạy tức là lạm dụng Kinh Thánh, chớ không phải sử dụng nó. Muốn tránh những sai lầm như thế, ta cần phải học suy nghĩ theo cách giải kinh, nghĩa là bắt đầu với lúc ấy và ở đó, và phải làm như vậy với từng câu, từng phần Kinh Thánh.

2. Như vậy, chúng tôi muốn lưu ý rằng ta không nên bắt đầu bằng cách tham khảo các “chuyên gia.” Nhưng nếu cần thiết phải làm như thế, ta phải cố tìm các nguồn tài liệu tốt nhất. Thí dụ như trong Mac Mc 10:23; (Mat Mt 19:23; LuLc 18:24) khi kết thúc câu chuyện về chàng thanh niên giàu có, Chúa Giê-xu phán: “Kẻ giàu vào Nước Đức Chúa Trời khó là dường nào.” Rồi Ngài nói thêm “con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Đức Chúa Trời.” Người ta thường bảo rằng tại Giê-ru-sa-lem có một cửa vào thành gọi là “Lỗ Kim” mà những con lạc đà chỉ có thể chui qua bằng cách quỳ mọp xuống, nhưng hết sức khó khăn. Ở đây, người ta muốn giải nghĩa rằng con lạc đà có thể chui qua (cửa) “Lỗ Kim.” Tuy nhiên điều rắc rối với cách “giải kinh” này là việc ấy vốn không có thật. Chẳng hề có một cái cửa như thế tại Giê-ru-sa-lem ở bất cứ thời đại nào trong lịch sử cả. “Chứng cứ” sớm nhất cho biết về ý niệm này được được trình bày vào thế kỷ thứ 11 (!) trong một sách giải kinh của Theophylact thuộc Giáo hội Hi Lạp người ta phải vật lộn với câu Kinh Thánh ấy y như chúng ta vậy. Sau cùng, con lạc đà không thể chui qua lỗ kim, và đây chính là điểm mà Chúa Giê-xu muốn nói. Một người chỉ tin cậy vào của cải thì không thể vào được Nước Trời. Người giàu được cứu là một phép lạ, và đó chính là luận điểm của câu tiếp theo: “Vì Đức Chúa Trời làm mọi sự được cả.”

Học Giải Kinh

Vậy thì làm thế nào để chúng ta giải kinh đúng đồng thời tránh được các cạm bẫy trong tiến trình giải kinh? Phần đầu của hầu hết các chương trong sách sẽ trình bày cách thực hiện công tác này đối với từng thể văn. Ở đây, chúng tôi sẽ tóm lược những điều liên quan đến công tác giải nghĩa bất kỳ một phần Kinh Thánh nào.

Ở mức độ cao nhất, công tác giải kinh đòi hỏi hiểu biết nhiều điều mà chúng tôi không trông mong các độc giả của sách phải nắm qua như: các ngôn ngữ Kinh Thánh, bối cảnh Do Thái, Xê-mít (Semitic), Hy Lạp (Hellenistic); làm thế nào để xác định một đoạn văn nguyên bản khi các cổ bản có nhiều cách đọc khác nhau, cách sử dụng những nguồn tài liệu và phương tiện hổ trợ. Tuy nhiên, bạn có thể học giải kinh giỏi ngay cả khi bạn chưa có được những kỹ năng và phương tiện ấy. Muốn làm được điều đó; trước hết bạn phải biết bạn có thể làm gì bằng khả năng của bạn; thứ đến, bạn phải học sử dụng công trình của những người khác.

Chìa khóa để giải kinh đúng, và qua đó đọc Thánh Kinh cách thông minh hơn, là tập đọc kỹ đoạn kinh văn và đặt những câu hỏi chính xác về đoạn kinh văn ấy. Tác phẩm Cách Đọc Sách (How to Read a Book) của J. Adler (1940, rev. ed with Charles Van Doren, New York: Simon and Schuster, 1972) sẽ ích lợi cho bạn trong lãnh vực nầy. Qua nhiều năm dạy đại học và chủng viện, chúng tôi nhận thấy nhiều người không biết phương pháp đọc sách. Muốn đọc hoặc nghiên cứu Kinh Thánh thông minh đòi hỏi phải đọc kỹ, điều đó bao gồm cả việc đặt câu hỏi chính xác.

Có hai loại câu hỏi cơ bản cho mọi phân đoạn Kinh Thánh: câu hỏi liên quan bối cảnh và câu hỏi liên quan nội dung. Các câu hỏi liên quan bối cảnh cũng có hai loại: lịch sử và văn chương. Chúng ta sẽ lược xem từng loại một.

Bối Cảnh Lịch Sử

Bối cảnh lịch sử khác nhau với từng sách, liên hệ đến nhiều điều: thời đại và văn hóa của tác giả và độc giả đầu tiên, đó là các yếu tố địa lý và chính trị trong thời của tác giả, cũng như cơ hội mà sách, thư tín, thi thiên, lời tiên tri, hoặc một bài văn thuộc một thể loại khác, đã được viết ra. Hiểu biết những vấn đề trên là điều rất quan trọng.

Người ta sẽ có cái nhìn khác đi khi biết bối cảnh trong thời A-mốt, Ô-sê hoặc Ê-sai, hay biết A-ghê đã nói tiên tri sau thời kỳ lưu đày, hoặc việc dân Y-sơ-ra-ên đang trông đợi Đấng Mết-si-a khi Giăng Báp-tít và Chúa Giê-xu xuất hiện, hoặc hiểu rõ những điểm khác nhau giữa thành phố Cô-rinh-tô và Phi-líp và những điều này ảnh hưởng thế nào trên Hội Thánh trong mỗi thành phố. Khi đọc các ẩn dụ của Chúa Giê-xu ta sẽ hiểu thêm rất nhiều nếu biết được một số phong tục tập quán vào thời của Chúa Giê-xu. Chắc chắn ta sẽ hiểu khác đi khi biết rằng đồng đơ-ni-ê trả cho các công nhân trong Mat Mt 20:1-16 tương đương với tiền lương cho một ngày công. Ngay cả vấn đề địa hình cũng quan trọng. Người được trưởng dưỡng tại miền núi cũng phải thận trọng đừng dùng kinh nghiệm hiểu biết về các vùng núi của mình khi nghĩ về “các núi vây quanh Giê-ru-sa-lem” (Thi Tv 125:2)!

Để trả lời cho phần lớn các câu hỏi thuộc loại này, đôi khi ta cũng cần trợ giúp từ bên ngoài. Bộ Tự Điển Bách Khoa Kinh Thánh Quốc Tế (International Standard Bible Encyclopedia, ed. G. W. Bromiley, Grand Rapids: Zondervan, 1975), bộ Tự Điển Kinh Thánh Minh Họa Zondervan (Zondervan Pictorial Encyclopedia of the Bible, ed. Merrill C. Tenney, Grand Rapids: Zondervan, 1975) hay bộ Tân Tự Điển Kinh Thánh (New Bible Dictionary, ed. J. D. Douglas, Grand Rapids: Eerdmans, 1962) sẽ rất ích lợi. Nếu ta muốn tra cứu sâu hơn thì phần thư mục ở cuối mỗi bài viết sẽ là điểm khởi đầu rất tốt.

Tuy nhiên, câu hỏi quan trọng hơn trong phần bối cảnh lịch sử liên quan đến cơ hội và mục đích của từng sách hoặc mỗi phần khác nhau. Ở đây, ta cần hiểu điều gì đang xảy ra trong Y-sơ-ra-ên hoặc Hội Thánh mà văn kiện đó phải được viết ra, hoặc hoàn cảnh nào đã khiến tác giả viết sách. Điều này cũng khác nhau với từng sách, chẳng hạn nó quan trọng đối với I Cô-rinh-tô hơn là Châm Ngôn.

Lời giải đáp cho câu hỏi này thường ở ngay trong sách – nếu có thể tìm thấy. Nhưng bạn cần phải biết đọc bằng đôi mắt mở to để thấy được những điều này. Nếu bạn muốn kiểm chứng những gì mình đã khám phá liên quan đến những câu hỏi trên, bạn có thể tra cứu trong Thánh Kinh Từ Điển một lần nữa, hoặc xem phần dẫn nhập của một quyển sách giải nghĩa sách ấy, hoặc đọc cuốn Thánh Kinh Đại Cương của Eeardman (Eerdman’s Handbook to the Bible, ed. David Alexander and Pat Alexander, Grand Rapids: Eerdmans, 1973). Nhưng bạn cần tự mình nghiên cứu, tìm tòi trước đã.

Văn Mạch

Đây là điểm nhiều người ngụ ý khi nói về việc đọc điều gì đó trong bối cảnh của nó. Điều này rất quan trọng trong công tác giải kinh, và may mắn là ta có thể làm tốt điều này mà không nhất thiết phải tham khảo ý kiến các “chuyên gia.” Nói chung, văn mạch hàm ý từ ngữ chỉ có nghĩa trong câu và hầu hết các câu Kinh Thánh chỉ có nghĩa trong tương quan với các câu trước và sau chúng.

Câu hỏi quan trọng nhất liên quan đến văn mạch mà bạn cần phải lặp đi lặp lại với mỗi câu, mỗi phân đoạn là “Vấn đề ở đây là gì?” Chúng ta phải lần theo dòng tư tưởng của tác giả. Tác giả muốn nói gì và tại sao lại nói ở đây? Sau khi đã nêu lên vấn đề đó rồi, tác giả sẽ nói gì tiếp theo, và tại sao?

Câu hỏi nêu ra sẽ khác nhau tùy từng thể văn, nhưng nó luôn luôn là câu hỏi vô cùng quan trọng. Bạn nhớ rằng mục tiêu của công tác giải kinh là tìm ra ý định nguyên thủy của tác giả. Muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ này, ta cần phải sử dụng một bản dịch có thể giúp ta nhận diện các thể văn. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc giải kinh khiếm khuyết của các độc giả dùng bản dịch King James và ở mức độ ít hơn là bản New American Standard, đó là mỗi câu đều được in ra như một phân đoạn. Lối sắp xếp như thế có xu hướng che mờ cách lập luận của tác giả. Do đó, ta phải học nhận diện các đơn vị tư tưởng, xem chúng hoặc là phân đoạn (cho thể văn xuôi) hoặc là câu hay khổ (cho thể thi ca). Người đọc có thể phân biệt được nếu dùng một bản dịch tốt.

Câu Hỏi về Nội Dung

Loại câu hỏi quan trọng thứ hai đối với bất kỳ câu hay phần Kinh Thánh nào liên quan đến nội dung mà tác giả muốn truyền đạt. Nội dung bao gồm với ý nghĩa của từ ngữ, liên hệ văn phạm giữa các câu, và việc chọn nguyên bản khi có nhiều cổ bản khác nhau. Nó cũng bao gồm một số các mục trong phần “Bối cảnh lịch sử” đã đề cập ở trên, chẳng hạn như ý nghĩa của đồng đơ-ni-ê, đoạn đường được phép đi trong ngày sa-bát, hay “các nơi cao,” vv…

Đây là các câu hỏi ý nghĩa mà ta thường áp dụng với các đoạn kinh văn. Trong IICor 5:16, Phao-lô viết, “Dẫu chúng tôi từng theo xác thịt mà nhận biết Đấng Christ, song cũng chẳng còn nhận biết Ngài cách ấy đâu” (NASB), có lẽ ta muốn biết: “theo xác thịt” của ai, Đấng Christ hay của người nhận biết Ngài. Điều Phao-lô muốn nói ở đây là “chúng ta” không còn nhận biết Chúa Cứu Thế “theo quan điểm của thế gian” nữa, chớ không phải chúng ta không còn nhận biết Ngài qua “cuộc đời tại thế của Ngài” nữa.
Để trả lời loại câu hỏi này, ta sẽ cần sự giúp đỡ từ bên ngoài. Một lần nữa, chất lượng của câu trả lời thường tùy thuộc vào chất lượng của các nguồn tài liệu ta sử dụng. Do đó, bạn cần tham khảo một bộ giải kinh tốt. Tuy nhiên, tham khảo sách giải nghĩa phải là công việc “cuối cùng.”

Phương Tiện
Vì vậy, hầu như bạn có thể giải kinh tốt với sự trợ giúp tối thiểu từ bên ngoài, miễn là phần trợ giúp ấy phải có chất lượng cao nhất. Chúng tôi đã đề cập bốn phương tiện như thế: một bộ Thánh Kinh Từ Điển tốt, một cuốn Thánh Kinh Cẩm Nang tốt, một bản dịch tốt, và những sách giải nghĩa tốt. Dĩ nhiên, còn có nhiều loại dụng cụ khác nữa, đặc biệt là cho các loại nghiên cứu theo chủ đề hoặc luận đề. Nhưng muốn đọc và nghiên cứu Kinh Thánh theo từng sách, thì đây là các dụng cụ cần thiết.
Một bản dịch tốt (hay tốt hơn là vài bản dịch tốt) là dụng cụ cơ bản cho người không biết nguyên ngữ. Do đó chương tiếp theo sẽ dành riêng cho vấn đề này. Học cách chọn sách giải nghĩa tốt cũng là điều quan trọng, nhưng vì đó là công việc cuối cùng chúng tôi sẽ nêu lên trong phần phụ lục để kết thúc quyển sách này.

Công Tác Thứ Hai: Giảng Kinh
Mặc dầu thường thì chữ “giảng kinh” (hay “luận kinh”: hermeneutics) bao trùm toàn bộ lãnh vực giải nghĩa, gồm cả việc giải kinh. Theo nghĩa hẹp, đó là tìm trong những bản văn cổ điều gì là phù hợp cho ngày nay. Trong sách này, chúng tôi sẽ sử dụng ý nghĩa đó, để đặt câu hỏi tìm ý nghĩa của Kinh Thánh cho hoàn cảnh “ở đây và bây giờ.”

Nói cho cùng thì chính vấn đề của hiện tại đưa chúng ta đến với Kinh Thánh. Thế thì tại sao chúng ta không bắt đầu với nó? Tại sao lại phải bận tâm với việc giải kinh? Cùng một Đức Thánh Linh đã cảm thúc việc trước tác Kinh Thánh, chắn chắc cũng có thể linh cảm cho người đọc nó. Theo một nghĩa thì lập luận trên đúng, và chúng tôi không có ý định dùng sách này tước bỏ niềm vui của việc đọc Kinh Thánh dưỡng linh và ý thức giao thông trực tiếp với Chúa qua cách đọc Kinh Thánh như thế. Nhưng việc đọc dưỡng linh không phải là cách duy nhất. Ta còn phải đọc để học và hiểu nữa. Tóm lại, ta phải học nghiên cứu Kinh Thánh, để rồi chính điều này sẽ chỉ cho chúng ta cách đọc dưỡng linh. Ý niệm này dẫn chúng tôi đến chỗ nhấn mạnh rằng việc “giảng kinh” (hermeneutics) đúng đắn bắt nguồn từ việc “giải kinh” (exegesis) vững vàng.

Lý do khiến ta không bắt đầu với cái ở đây và bây giờ là vì sự kiểm soát thích hợp duy nhất cho giảng kinh chỉ tìm được trong ý định nguyên thuỷ của đoạn kinh văn. Như đã lưu ý ở phần đầu của chương sách này, đây là “ý nghĩa rõ ràng” mà ta cần khám phá. Nếu không, bất kỳ độc giả nào cũng có thể đưa vào đoạn kinh văn những gì họ muốn. Giảng kinh kiểu này là hoàn toàn chủ quan, và ai có thể phân định cách giải nghĩa của người này là đúng, còn của người kia là sai?

Ngược với tính chủ quan như thế, chúng tôi nhấn mạnh rằng ý nghĩa nguyên thủy của đoạn kinh văn trong phạm vi chúng ta có thể hiểu được là điểm kiểm soát khách quan. Chúng tôi tin rằng việc tín đồ Mormons làm báp-tem cho người chết dựa trên ICo1Cr 15:29, tín đồ Chứng Nhân Giê-hô-va chối bỏ thần tánh của Chúa Cứu Thế, những người bắt rắn sử dụng Mac Mc 16:18, hay “các nhà truyền giáo Phúc Âm thạnh vượng” biện hộ rằng giấc mơ của người Mỹ là giấc mơ đúng theo Cơ-đốc giáo dựa vào IIIGi 3Ga 1:3, đều là những cách giải nghĩa không đúng. Trong mỗi trường hợp, sai lầm nằm trong sự giảng kinh của họ vì nó không được kiểm soát bởi việc giải kinh đúng. Họ bắt đầu với cái “ở đây và bây giờ,” và đưa vào đoạn văn những điều không có trong ý nghĩa nguyên thủy. Nếu giảng kinh như vậy thì điều gì ngăn cản người ta giết con gái mình vì một lời thề dại dột, như trong trường hợp của Giép-thê?

Dĩ nhiên có người lý luận rằng nhận thức thông thường sẽ ngăn cản ta không làm những điều dại dột như thế. Nhưng rủi thay nhận thức thông thường không phải thông dụng như thế. Chúng ta muốn biết Kinh Thánh có ý nghĩa gì cho chúng ta – một cách chính đáng. Nhưng chúng ta không thể áp đặt lên Kinh Thánh điều gì mình muốn, rồi “gán” điều đó cho Đức Thánh Linh. Đức Thánh Linh không thể tự mâu thuẫn, và Ngài chính là Đấng đã cảm thúc phần ý nghĩa nguyên thủy. Vì vậy, Ngài giúp đỡ chúng ta khám phá ra phần ý nghĩa nguyên thủy, và hướng dẫn chúng ta khi chúng ta cố gắng ứng dụng cách trung tín phần ý nghĩa đó cho chính hoàn cảnh hiện tại của chúng ta!
Không phải dễ trả lời các câu hỏi trong công tác giảng kinh, có lẽ vì thế mà rất ít sách viết cũng như nhất trí với nhau cách thức hoàn thành công tác này. Tuy nhiên, đây là điều rất quan trọng, tín hữu cần học trao đổi – và biết lắng nghe nhau. Một điều mà ai ai cũng đồng ý với nhau: Đoạn kinh văn không thể có ý nghĩa mà nó không ngụ ý muốn nói. Hay nói theo phương diện tích cực, thì ý nghĩa đích thực của đoạn kinh văn cho chúng ta chính là điều mà Đức Chúa Trời muốn dạy dỗ khi Ngài phán điều đó lần đầu tiên. Đây là điểm khởi đầu. Từ khởi điểm này chúng ta phải thực hiện thế nào chính là điều căn bản mà quyển sách này muốn đề cập.

Chắc có người sẽ hỏi: “Nhưng ngoài ý định nguyên thủy đoạn kinh văn không thể có thêm một ý nghĩa (đầy đủ hơn, sâu hơn) nào khác sao? Dù sao thì điều này cũng đã xảy ra ngay trong Tân Ước theo cách mà thỉnh thoảng Tân Ước sử dụng Cựu Ước?” Trong trường hợp những lời tiên tri, chúng ta không thể loại trừ khả năng đó, và phải lý luận rằng, với sự kiểm soát cẩn thận, có thể có nghĩa thứ hai, hoặc nghĩa đầy đủ hơn. Nhưng ta phải biện minh thế nào ở những điểm khác? Vấn đề của chúng ta thật đơn giản. Ai là người sẽ nói thay cho Đức Chúa Trời? Giáo hội Công Giáo La Mã ít gặp khó khăn ở điểm này; thẩm quyền giáo hội sẽ quyết định mọi ý nghĩa đầy đủ hơn của đoạn kinh văn. Tuy nhiên, Giáo hội Tin Lành Cải Chánh không có thẩm quyền này, do đó chúng ta cần thận trọng khi một ai đó bảo rằng người ấy hiểu được ý nghĩa sâu nhiệm hơn của Đức Chúa Trời trong một đoạn kinh văn – đặc biệt là trường hợp khi đoạn kinh văn ấy chẳng hề mang ý nghĩa như ý nghĩa nó đang bị gán cho. Từ đây mà ra đủ thứ giáo phái và tệ hơn là các tà giáo.

Khó có thể đề ra các quy luật cho công tác giảng kinh. Vì vậy, những gì chúng tôi đề nghị qua các chương sau đều là những hướng dẫn. Có lẽ bạn sẽ không đồng ý với các hướng dẫn của chúng tôi. Chúng tôi hy vọng rằng sự bất đồng ý kiến được kềm giữ trong tình yêu Cơ-đốc, và hy vọng các hướng dẫn của chúng tôi sẽ kích thích tư tưởng của chính bạn về những vấn đề này.

Công Cụ Căn Bản: Một Bản Dịch Tốt

Sáu mươi sáu sách trong bộ Kinh Thánh của Giáo Hội Tin Lành được viết bằng ba ngôn ngữ khác nhau: Hy Bá Lai (hầu hết Cựu Ước), A-ram (một ngôn ngữ cùng gốc với tiếng Hy Bá Lai được sử dụng cho phân nửa sách Đa-ni-ên và hai đoạn trong sách E-xơ-ra) và Hi Lạp (toàn bộ Tân Ước). Chúng tôi nghĩ rằng hầu hết độc giả của sách này không biết các ngôn ngữ ấy. Vì vậy, công cụ căn bản để bạn đọc và nghiên cứu Kinh Thánh là một bản dịch Anh ngữ tốt, hay như chúng tôi sẽ thảo luận trong chương này, là một số bản dịch Anh ngữ tốt (đối với người Việt Nam là bản dịch tiếng Việt tốt).

Như chúng tôi đã lưu ý trong chương trước, chính sự việc bạn đọc Lời Đức Chúa Trời qua một bản dịch có nghĩa là bạn đã tham gia vào công tác giải nghĩa rồi, cho dù bạn có thích hay không. Đọc bằng một bản dịch không phải là một việc xấu; đó chỉ là một việc không thể tránh được mà thôi. Tuy nhiên theo một ý nghĩa nào đó, người chỉ có thể đọc Kinh Thánh trong Anh ngữ phải chịu lệ thuộc vào các dịch giả, mà các dịch giả thường phải chọn lựa, xem nguyên văn Hi Bá Lai hay Hi lạp thật sự có ý nghĩa gì.

Điểm khó khăn khi ta chỉ dùng một bản dịch duy nhất cho dù nó tốt đến đâu, đó là ta đã tự phó thác cho các chọn lựa giải kinh của bản dịch như là Lời của Đức Chúa Trời. Dĩ nhiên bản dịch bạn đang sử dụng có thể là đúng; nhưng cũng có thể là sai.

Thí dụ, hãy lấy đoạn dưới đây trong bốn bản dịch Anh ngữ ICor 7:36:
KJV: “Nếu một người nam tưởng mình đã đối xử không phải lẽ với người trinh nữ của mình…”
NASB: “Nếu một người nam tưởng mình đã có hành động không phải lẽ với con gái còn đồng trinh của mình…”
NIV: “Nếu có ai tưởng mình đã hành động không phải lẽ đối với người trinh nữ mà mình đã đính hôn”
NEB: “Nếu một người nam có một nữ cộng sự độc thân và cảm thấy mình không cư xử phải lẽ với nàng…”

Bản KJV rất sát với nghĩa đen, nhưng chẳng giúp ích được bao nhiêu, vì đã để cho từ ngữ “trinh nữ” và mối liên hệ giữa “người nam” với “người trinh nữ của mình” trở nên mơ hồ. Tuy nhiên, một điều ta có thể tuyệt đối chắc chắn: Phao-lô đã không chủ ý mơ hồ. Ông có ý nói đến một trong ba trường hợp phải chọn khác, và những người Cô-rinh-tô đã đặt vấn đề đó cho ông trong bức thư của họ biết rõ đó là vấn đề nào – và thật ra họ chẳng biết gì cả về hai vấn đề kia.

Điều lưu ý ở đây rằng không bản dịch nào trong số ba bản dịch kia là tệ cả, vì bản dịch nào cũng là một chọn lựa chính đáng cho rằng đó là ý định của Phao-lô. Tuy nhiên, chỉ có một trong số đó có thể là cách dịch đúng mà thôi. Vấn đề là: bản dịch nào đúng? Vì một số các lý do, bản dịch NIV phản ảnh sự chọn lựa giải kinh tốt nhất ở đây. Tuy nhiên, nếu bạn chỉ thường xuyên đọc bản NASB mà thôi (là lựa chọn có vẻ tệ nhất ở đây) thì bạn đã tự buộc mình với cách giải nghĩa câu Kinh Thánh có thể là không đúng. Vấn đề này có thể có hằng ngàn thí dụ minh họa. Nếu vậy, phải làm gì đây?

Thứ nhất, việc chỉ dùng một bản dịch có thể là một thói quen tốt miễn là bản dịch đó phải thật tốt. Việc này sẽ giúp ích cho vấn đề học thuộc lòng, cũng như nó tạo cho bạn ý niệm trước sau như một. Hơn nữa, nếu bạn dùng một trong số các bản dịch tốt, bản dịch ấy sẽ có phần ghi chú lề ở những chỗ không rõ ý. Tuy nhiên, trong việc nghiên cứu Kinh Thánh, bạn phải dùng một số bản dịch được chọn lựa kỹ. Điều tốt nhất cần làm là sử dụng các bản dịch mà ta biết trước là sẽ có chỗ khác nhau. Điều này sẽ chỉ rõ đâu là những chỗ có các vấn đề khó khăn về giải kinh. Để giải quyết các vấn đề ấy, nhiều lúc bạn sẽ cần đến sách giải nghĩa.

Nhưng bạn phải dùng bản dịch nào, và những bản dịch nào bạn cần dùng cho việc nghiên cứu? Không người nào có thể chọn thay cho người khác. Nhưng cách chọn của bạn không nên chỉ vì “Tôi thích nó” hay “Bản dịch này dễ đọc, dễ hiểu.” Chúng tôi muốn bạn thích bản dịch bạn có, và nếu đó là một bản dịch tốt, nó cũng sẽ dễ đọc, dễ hiểu nữa. Tuy nhiên, muốn có một chọn lựa thông minh, bạn cần biết vài điều liên hệ cả với chính khoa phiên dịch, cùng với một số các bản dịch khác nhau!

Khoa Phiên Dịch

Có hai loại lựa chọn cho một dịch giả: chọn lựa bản văn và chọn lựa ngôn ngữ. Loại thứ nhất liên quan đúng với từ ngữ và cách viết trong nguyên bản. Loại thứ hai liên quan với triết lý phiên dịch của dịch giả.

Vấn Đề Bản Văn

Mối quan tâm trước tiên của dịch giả là biết chắc bản văn Hi Bá Lai hay Hi văn mình dùng sát nhất với nguyên ngữ lúc nó mới được chính tác giả viết ra (hay của người sao chép vừa viết nó ra theo lời đọc của một người khác). Có phải đây là những gì tác giả Thi Thiên đã viết không? Có phải đây là lời của Mác hoặc Phao-lô không? Nếu đúng vậy, tại sao có người nghĩ khác đi?

Tuy các chi tiết về vấn đề bản văn của Cựu và Tân Ước có khác nhau, mối quan tâm chính vẫn như nhau: (1) không còn một nguyên bản (thủ bản) nào; (2) những gì còn lại là hằng ngàn bản chép tay (kể cả các bản sao của các bản dịch rất sớm), và được sao chép bằng tay qua một thời gian khoảng một ngàn bốn trăm năm; (3) tuy đa số các cổ bản cả Cựu lẫn Tân Ước xuất hiện từ thời gian cuối của thời trung cổ đều rất giống nhau, thì các thủ bản về sau này lại khác với các bản sao và bản dịch trước rất nhiều. Thật vậy, có trên năm ngàn cổ bản Hi văn sao một phần hoặc toàn bộ Tân Ước, cũng như hàng ngàn cổ bản bằng tiếng La tinh, nhưng đã chẳng hề có hai bản nào trong số đó hoàn toàn giống nhau.

Do đó, vấn đề là phải sàng lọc tất cả số tài liệu đã có, đối chiếu những chỗ mà các cổ bản có khác nhau (gọi là những “biến thể”), để xác định những biến thể nào là sai sót và biến thể nào thể hiện cách tốt nhất bản văn nguyên thuỷ. Tuy đây có vẻ như là một công tác nặng nề – và về một phương diện thì quả đúng như thế – người phiên dịch vẫn không ngã lòng, vì học được điều gì đó về phê bình bản văn, là khoa học tìm cách khám phá các nguyên bản từ những tài liệu cổ xưa.

Chủ đích của chúng tôi ở đây không nhằm cung cấp độc giả một phần nhập môn về khoa phê bình bản văn (textual criticism). Bạn có thể tùy tiện chọn trong số các bài viết của Bruce Waltke (Cựu Ước) và Gordon Fee (Tân Ước) trong bộ sách Biblical Criticism: Historical, Literary and Textual (Grand Rapids: Zondervan, 1978). Chủ đích của chúng tôi là đưa ra một số hiểu biết căn bản về khoa phê bình bản văn để bạn biết tại sao các dịch giả phải làm việc ấy, hầu bạn ý thức được rõ hơn về các ghi chú ngoài lề trong bản dịch của bạn khi thấy những câu như “các cổ bản có thẩm quyền khác thêm …” hoặc “một số cổ bản không có …”
Vì các chủ đích của chương này, có ba điều mà bạn cần biết:

1. Phê bình bản văn là một khoa học làm việc với nhiều kiểm soát thận trọng. Có hai loại chứng cứ mà dịch giả phải xét đến khi chọn các bản văn: ngoại chứng (đặc điểm và phẩm chất của các cổ bản) và nội chứng (các loại nhầm lẫn do những người sao chép tạo ra). Đôi lúc các học giả có ý kiến khác nhau về giá trị của những chứng cớ này, nhưng tất cả đều nhất trí rằng việc kết hợp các ngoại chứng và nội chứng mạnh lại với nhau giúp cho đa số những lựa chọn có phần dễ dàng. Nhưng với số còn lại, khi có hai dòng chứng cứ dường như đối chọi nhau, thì những việc chọn lựa sẽ càng khó khăn hơn.

Ngoại chứng liên quan với phẩm chất và tuổi của các cổ bản hậu thuẫn cho một biến thể nào đó. Đối với Cựu Ước, điều này thường là sự lựa chọn giữa các cổ bản Hi-bá-lai, hầu như tất cả đều là các bản sao thời trung cổ, và các cổ bản của các bản dịch Hi văn (bản Bảy Mươi, LXX), vốn có sớm hơn nhiều. Các công trình khảo học đã chứng minh rằng các cổ bản Hi Bá Lai phần lớn phản ảnh một văn bản rất cổ, nhưng vẫn thường phải được sửa chữa căn cứ theo bộ Bảy Mươi. Nhiều khi cả hai bản Hi Bá Lai lẫn Hi văn cũng không mang đến một nghĩa khả dĩ chấp nhận được, và gặp những trường hợp như thế các dịch giả phải phỏng đoán.

Đối với Tân Ước, ngoại chứng tốt hơn đã được bảo tồn tại Ai Cập. Khi chứng cứ sớm này cũng được hậu thuẫn bởi chứng cứ cũng sớm tương tự từ các khu vực khác của đế quốc La Mã, thì chứng cứ như thế được xem là có sức thuyết phục.

Nội chứng liên quan với những người sao chép và các tác giả. Khi các dịch giả gặp trường hợp phải chọn giữa hai biến thể hoặc nhiều hơn, họ thường có thể phát giác được cách viết nào là nhầm lẫn vì các thói quen và khuynh hướng sao chép, do đã được các học giả phân tích cẩn thận và bây giờ đã trở nên rõ ràng. Thường thường, chúng ta có thể xem biến thể nào đó là nguyên bản khi giải thích tốt nhất tại sao tất cả các biến thể khác có tình trạng như thế. Điều cũng quan trọng đối với dịch giả là phải biết rõ bút pháp và dụng ngữ của một tác giả Kinh Thánh nào đó, vì các điểm này cũng đóng vai trò quan trọng trong việc lựa chọn bản văn.

Như đã ghi nhận, với phần lớn các biến thể được tìm thấy trong các cổ bản, ngoại chứng tốt nhất (hoặc tốt) kết hợp với nội chứng tốt nhất (hoặc tốt) sẽ càng củng cố tính chân xác liên quan đến nguyên bản. Ta có thể thấy rõ điều này bằng cách đối chiếu bản KJ (vốn dựa trên các cổ bản tồi và muộn về sau này) với một bản dịch hiện đại như NRSV hoặc NIV. Chúng tôi sẽ ghi ra ba biến thể để minh họa cho công tác phê bình bản văn.

ISa-mu-ên 8:16
KJV: “những trai tráng đẹp đẽ nhất của các ngươi và những con lừa của các ngươi”
NIV: “những con tốt nhất trong bầy gia súc và lừa của các người”
Bản văn của NIV (bầy gia súc) xuất xứ từ bộ Bảy Mươi, là bản dịch Hi văn dễ đọc và dễ hiểu của Cựu Ước đã được thực hiện tại Ai Cập vào khoảng từ 250-150 T.C. Bản KJV dựa theo bản văn Hi Bá Lai thời trung cổ dịch là “những trai tráng,” một chữ khó có thể được dùng song hành với “những con lừa.” Nguồn gốc của việc chép sai trong văn bản Hi Bá Lai mà bản KJV dựa theo rất dễ hiểu. Từ ngữ chỉ “những trai tráng của các ngươi” trong Hi Bá Lai văn là bhrykm, trong khi chữ “bầy gia súc của các ngươi” là bqrykm. Chỉ cần một mẫu tự chép sai của một người sao chép đã dẫn đến hậu quả là ý nghĩa bị thay đổi. Bộ Bảy Mươi đã được phiên dịch một thời gian trước khi có việc sao chép sai, do đó nó giữ được từ ngữ “bầy gia súc” của nguyên bản. Việc ngẫu nhiên đổi thành “các chàng trai của các ngươi” đã được thực hiện về sau, ảnh hưởng đến các cổ bản Hi Bá Lai của thời trung cổ nhưng đã quá muộn để có thể ảnh hưởng đến bộ Bảy Mươi của thời tiền trung cổ.

Mác 1:2
KJV: “như đã được viết trong các sách tiên tri …”
NIV: “như đã được viết trong sách của Ê-sai, nhà tiên tri …”
Bản văn của NIV được tìm thấy trong tất cả các cổ bản Hi văn xưa. Nó cũng là bản văn duy nhất được tìm thấy trong tất cả các bản dịch xưa (La văn, Ai Cập cổ, Sy-ri cổ) và là bản văn duy nhất được toàn thể các giáo phụ trước thế kỷ thứ chín biết, ngoại trừ một người. Thật là dễ thấy điều đã xảy ra cho các cổ bản Hi văn về sau này. Vì phần trích dẫn tiếp theo đó là một kết hợp giữa Malachi 3:1 và Esai 40:3, cho nên một người sao chép về sau đã “sửa” nguyên bản của sách Mác để nó chính xác hơn.

I Cô-rinh-tô 11:29
KJV: “người nào ăn và uống cách không xứng đáng”
NIV: “ai ăn và uống”

Những chữ “cách không xứng đáng” không thấy trong bất kỳ một cổ bản Hi văn sớm nhất và tốt nhất nào. Việc nó có mặt trong các bản dịch La tinh và các cổ bản Hi văn muộn hơn có thể dễ dàng giải thích như là một phần thêm vào được chuyển từ câu 27 sang, là chỗ “tất cả” các cổ bản được biết đều có chữ “cách không xứng đáng.” Không có cách nào giải nghĩa thoả đáng về việc thế nào nó lại bị bỏ đi trong câu 29 trong tất cả các cổ bản đầu tiên, nếu nó đã có ở đó từ đầu.

Ở đây, thiết tưởng cần lưu ý rằng phần lớn các dịch giả đều căn cứ vào các văn bản Hi văn và Hi Bá Lai văn đã được khảo cứu cẩn thận và nghiêm nhặt rồi. Với Tân Ước thì điều đó có nghĩa là “bản văn tốt nhất” đã được các học giả vốn là các chuyên gia trong lãnh vực ấy xác định. Nhưng nó cũng có nghĩa rằng, với cả Cựu lẫn Tân Ước, bản thân các dịch giả có thể tiếp cận với một “trang bị” (phần thông tin về văn bản trong các ghi chú lề) gồm luôn các biến thể có ý nghĩa mà cổ bản của họ hậu thuẫn cho.

2. Tuy phê bình bản văn là một ngành khoa học, nó không phải là một khoa học chính xác, bởi vì nó liên hệ đến quá nhiều biến thể con người. Thỉnh thoảng, nhất là khi công tác phiên dịch là một công tác tập thể của một ủy ban, bản thân các dịch giả cũng hoàn toàn đồng ý với nhau trong vấn đề biến thể nào theo đúng nguyên văn, còn biến thể nào là sai lầm của người sao chép. Khi gặp trường hợp như thế, thường thì chọn lựa của đa số sẽ được đưa vào bản dịch chính thức, trong khi chọn lựa của thiểu số được đưa ra phần ghi chú ngoài lề.
Lý do cho sự không chắc chắn, hoặc là vì chứng cứ tốt nhất của cổ bản mâu thuẫn với cách giải nghĩa tốt nhất của sai sót, hoặc vì chứng cứ cổ bản ngang ngửa nhau và không có biến thể của bên nào có thể giải thích được biến thể kia đã xuất hiện ra sao. Chúng tôi có thể minh họa trường hợp này bằng ICor 13:3:

Bản văn của NIV: “bỏ thân mình để chịu đốt.”
Ghi chú lề của NIV: “bỏ thân mình để tôi có thể khoe khoang.”

Trong Hi văn, chỗ khác nhau chỉ là một mẫu tự: kauqhswmai / ??????kauchswmai. Cả hai biến thể đều có hậu thuẫn tốt từ rất sớm, và cả hai đều có nhiều khó khăn cho việc giải nghĩa (I Cô-rinh-tô đã được viết trước khi các Cơ Đốc nhân chịu tử đạo bằng cách thiêu sống; thế nhưng thật là khó tìm cho ra một cách giải nghĩa thích hợp cho câu “để tôi có thể khoe khoang”). Đây là một trong nhiều chỗ mà một bộ giải nghĩa tốt có lẽ rất cần thiết để bạn tự quyết định.

Thí dụ trên đây cũng là một dịp tốt để chúng tôi đưa bạn quay trở lại với chương sách trước. Bạn sẽ ghi nhận được rằng việc chọn bản văn đúng là một trong các vấn đề về “nội dung.” Một nhà giải kinh giỏi phải biết trong số những lời lẽ đó thì những lời nào là do chính Phao-lô viết ra. Mặt khác, cũng cần lưu ý rằng cuối cùng thì luận điểm của Phao-lô ở đây chỉ chịu ảnh hưởng rất ít của sự lựa chọn đó. Trong cả hai trường hợp, ông đều ngụ ý nói rằng giả sử có ai phải liều thân vì một sự hi sinh cùng cực nào đó, hoặc một việc làm tương tự như thế mà thiếu tình thương, thì tất cả đều phí công vô ích.

Vậy, đây là điều muốn nói khi bảo rằng các dịch giả phải chọn lựa bản văn, mà nó cũng giải thích một trong các lý do tại sao các bản dịch nhiều khi lại khác nhau – và cũng giải thích tại sao bản thân các dịch giả cũng chính là những người giải nghĩa nữa. Trước khi chúng ta chuyển sang lý do thứ ba, tại sao các bản dịch lại khác nhau, thiết tưởng cần đưa ra một điều đáng lưu ý ở đây liên hệ đến bản Kinh Thánh Anh ngữ King James.

3. Bản King James chẳng những là bản dịch được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới, mà còn là cách diễn tả cổ điển của Anh ngữ. Lẽ tất nhiên, nó đã đúc khuôn cho nhiều câu Anh ngữ sẽ thể hiện vĩnh viễn. Tuy nhiên, về Tân Ước thì bản văn Hi văn duy nhất nằm trong tay các dịch giả hồi năm 1611 được căn cứ trên các cổ bản muộn về sau này, vốn chứa các sai lầm của trên một ngàn năm sao đi chép lại. Một số các nhầm lẫn ấy – mà chúng ta phải lưu ý là có rất nhiều sai lầm như thế – không tạo khác biệt về phương diện giáo lý đối với chúng ta, nhưng chúng thường tạo ra một khác biệt về ý nghĩa của một số đoạn kinh văn đặc biệt.

Chính vì thế mà trong việc nghiên cứu, bạn phải sử dụng gần như bất luận một bản dịch hiện đại nào chứ không phải chỉ dùng bản King James mà thôi. Cách chọn giữa các bản dịch hiện đại đưa chúng ta sang loại chọn lựa tiếp theo mà các dịch giả phải thực hiện.
Các Vấn Đề Ngôn Ngữ

Hai loại chọn lựa tiếp theo – từ ngữ và văn phạm – đưa chúng ta đến với khoa phiên dịch đích thực. Vấn đề liên quan đến việc chuyển các từ ngữ và ý niệm từ một ngôn ngữ này sang một ngôn ngữ khác. Muốn hiểu rõ các lý thuyết khác nhau ẩn dưới các bản dịch hiện đại, bạn cần làm quen với các thuật ngữ sau đây:

Nguyên ngữ: Ngôn ngữ mà từ đó được phiên dịch ra; trong trường hợp của chúng ta, đó là ngôn ngữ Hi Bá Lai, A-ram, hoặc Hi văn.
Ngôn ngữ phiên dịch: Ngôn ngữ một người dùng để dịch; trong trường hợp chúng ta đang thảo luận là Anh ngữ.

Cách biệt lịch sử: Liên hệ đến những điểm khác nhau giữa nguyên văn với ngôn ngữ phiên dịch, cả trong các vấn đề về từ ngữ, văn phạm và những thành ngữ cũng như trong các vấn đề về văn hóa và lịch sử.

Lý thuyết về phiên dịch: Điều này liên hệ đến mức độ mà ta sẵn sàng chấp nhận nhằm khỏa lấp khoảng cách giữa hai ngôn ngữ. Thí dụ có thể dịch đèn là “đèn pin” hay “đuốc” trong các nền văn hóa mà nó được sử dụng để phục vụ cho chủ đích mà cây đèn đã được dùng trước đây không? Hay là ta cứ dịch là “đèn” và để mặc cho độc giả tự khỏa lấp khoảng cách? Có nên dịch cái hôn thánh là “cái bắt tay trong tình thương yêu Cơ Đốc” trong những nền văn hóa mà việc hôn ở chỗ công khai bị xem là cớ vấp phạm?

Cần lưu ý cách thức ba từ ngữ ấy được áp dụng vào ba lý thuyết phiên dịch sau đây:

Dịch theo nghĩa đen (literal): Cố gắng phiên dịch mà vẫn giữ càng sát với các từ ngữ và cách đặt câu đúng với nguyên ngữ, nhưng vẫn có ý nghĩa trong ngôn ngữ phiên dịch. Dịch theo nghĩa đen sẽ giữ cho cách biệt lịch sử được giữ vẹn trong mọi điểm.

Dịch tự do (Free): Chỉ cố gắng dịch các ý niệm từ một ngôn ngữ này sang một ngôn ngữ khác, ít quan tâm đến nguyên ngữ chính xác. Một bản dịch tự do, có khi được gọi là bản dịch diễn ý, cố tìm cách loại bỏ cách biệt lịch sử được nhiều bao nhiêu càng hay bấy nhiêu.
Tương đương năng động (Dynamic equivalence): Cố gắng phiên dịch các từ ngữ, thành ngữ và các cấu trúc văn phạm của nguyên ngữ bằng những từ ngữ, thành ngữ và các cấu trúc văn phạm tương đương chính xác trong ngôn ngữ phiên dịch. Cách dịch này giữ nguyên cách biệt lịch sử của tất cả các vấn đề lịch sử và phần lớn các sự kiện, nhưng “cập nhật hóa” các vấn đề về ngôn ngữ, văn phạm và bút pháp.

Không phải lúc nào các dịch giả cũng nhất quán, nhưng một trong các nguyên tắc trên đây phải chi phối cách tiếp cận căn bản của dịch giả đối với công tác của mình. Nhiều khi cách dịch theo nghĩa đen hoặc tự do có thể là quá đáng, như Clarence Jordan trong bản Cotton patch Version của ông đã dịch bức thư của Phao-lô cho thành phố Rô-ma, là cho thành phố Washington (!), trong khi Robert Young, trong bản dịch theo nghĩa đen được phát hành năm 1862, đã biến ICo1Cr 5:1 thành một thứ Anh ngữ khó có thể chấp nhận được: “Chuyện đĩ điếm đã thật sự được bàn tán giữa anh em, mà một chuyện đĩ điếm như thế là điều chưa từng được nghe nói cả đến giữa các dân tộc khác – tức là có người đã lấy vợ của cha mình (!)”

Các bản dịch toàn bộ Kinh Thánh thông dụng có thể được xếp (cách chủ quan) theo mức độ cách biệt lịch sử như sau:
Tương đương
Nghĩa đen năng động Tự do
_________________________________________ __ __ __ __ __ __ __
KJV RSV NRSV NIV GNB PHILLIPS LB
NASB NAB JB
NEB

Nguyên tắc phiên dịch hay nhất là tương đương năng động (dynamic equivalence). Một bản dịch theo nghĩa đen thường giúp ích như một nguồn thứ cấp; nó sẽ cho phép bạn tự tin vì biết những chữ Hi lạp hay Hi Bá Lai như thế nào. Một bản dịch tự do cũng có thể hữu ích – để kích thích bạn suy nghĩ về ý nghĩa khả hữu của một bản văn. Nhưng bản dịch cơ bản để đọc và nghiên cứu phải đại khái giống như NIV.

Nan đề của một bản dịch theo nghĩa đen là nó giữ khoảng cách ở những chỗ có nhầm lẫn về ngôn ngữ và văn phạm. Như dịch giả thường chuyển từ Hi văn hoặc Hi Bá Lai sang Anh ngữ điều mà nếu không gặp trường hợp đó người ta sẽ chẳng bao giờ viết hay nói như vậy.
Cũng ví như dịch hai chữ Hán “bạch mã” ra là “trắng ngựa” trong tiếng Việt. Thí dụ, chẳng hề có người Anh chính gốc nào lại nói “coals of fire” (“than lửa đỏ” KJV, RoRm 12:20). Đó là cách dịch theo nghĩa đen, đúng nguyên văn từng chữ từng tiếng theo cách đặt câu của Hi văn, trong khi ý nghĩa của nó trong Anh ngữ là “burning coals” (NIV) hoặc “live coals” (NEB).

Nan đề thứ hai với cách dịch theo nghĩa đen là nó thường khiến cho câu tiếng Anh trở thành mơ hồ, trong khi câu Hi văn hoặc Hi Bá Lai văn vốn hết sức rõ ràng cho độc giả đầu tiên. Thí dụ như câu Hi văn trong IICor 5:16 kata sarka có thể dịch từng chữ từng tiếng theo nghĩa đen là “(biết) theo xác thịt” (như trong bản NASB). Nhưng đó không phải là cách nói bình thường trong tiếng Anh. Hơn nữa, ý nghĩa của câu này rất mơ hồ. Phải chăng người được biết là người “sống theo xác thịt”, điều mà dường như bản NASB ngụ ý muốn nói mà trường hợp ở đây sẽ có nghĩa đại khái như: “theo diện mạo bên ngoài”? Hay là người “biết” chỉ biết “theo xác thịt,” mà như thế sẽ có nghĩa là “theo quan điểm thế gian?” Trong trường hợp này, bản Hi văn vốn rất rõ ràng, và bản NIV đã dịch rất đúng là “cho nên từ nay trở đi (từ khi chúng ta đã được khiến sống lại để có một đời sống mới, câu 15) chúng ta sẽ chẳng nhìn ai theo quan điểm thế gian nữa.”

Mặt khác, vấn đề với một bản dịch tự do, nhất là cho mục đích nghiên cứu, là dịch giả cập nhật hóa tác giả nguyên thủy quá nhiều. Một “cách dịch” như thế rất dễ rơi vào chỗ gần giống với một sách giải nghĩa. Một bản dịch tự do luôn luôn do một dịch giả duy nhất thực hiện, và trừ phi dịch giả ấy đồng thời cũng là một nhà giải kinh tài ba, biết rõ nhiều vấn đề trong tất cả các khúc Kinh Thánh, bằng không sẽ có nguy cơ là độc giả sẽ bị dẫn đi sai lạc. Điều này đặc biệt nghiệm đúng cho bản dịch Living Bible, một bản dịch rất phổ biến nhưng rủi thay lại không hoàn toàn chính xác. Chúng ta có thể tạm chấp nhận những cách dịch như “flashlights” (“đèn pin” trong Thi Tv 119:105) hoặc “handshakes” (“bắt tay” trong IPhi 1Pr 5:14) hay “pancakes” (“bánh kếp” trong SaSt 18:6), nhưng dịch từ ngữ Hi văn carismata (các ân tứ thuộc linh) là “special abilities” (các khả năng đặc biệt) trong ICor 12:1-14:40 là quá phóng ý. Cách bản Living Bible dịch ICo1Cr 11:10 là “như một dấu hiệu rằng nàng ở dưới uy quyền người nam” đưa người ta đến chỗ hiểu sai, vì nguyên văn hàm ý rằng nàng là người có uy quyền. Trong IPhiero 5:13 tác giả Kinh Thánh có ẩn ý khi thay Rô-ma bằng Ba-by-lôn; chắc chắn tốt hơn là phải giải thích điều đó ở một chỗ nào khác chứ không nên dịch là Rô-ma, và hủy đi ẩn ý có mục đích của Phi-e-rơ. Bản dịch Living Bible rất dễ đọc, dễ hiểu, chỉ có điều là cũng có quá nhiều điểm không chính xác và diễn ý không thể trở thành quyển Kinh Thánh duy nhất – hoặc thậm chí căn bản – của một ai đó.

Bộ New Revised Standard Version (NRSV) chính xác hơn bộ Living Bible và không phải là một bản dịch tự do, nhưng nó có một số chỗ nói trổng khi đề cập đến người. Hậu quả của việc này nhiều khi tạo ra loại Anh ngữ bất bình thường, nghĩa là “đúng cách thận trọng” nhưng không mang sắc thái Anh ngữ lắm. Thí dụ như trong GiGa 3:4 bản NRSV có một câu khó hiểu: “Một người há có thể trở vào lòng mẹ một lần thứ hai để lại được sinh ra?” so với cách dịch bình thường của bản RSV nguyên thủy: “Có thể nào người ấy lại trở vào lòng mẹ mình một lần thứ hai để được sanh ra?” Cũng thế, với Thi Tv 1:1-8, trong khi bản RSV đã giữ lại nét tương phản hữu ý giữa người công chính đơn độc (“Phước cho người…” câu 1) với nhiều kẻ gian ác (“Kẻ ác chẳng như vậy đâu…” câu 4). Nét tương phản này đã bị bản NRSV loại bỏ bằng cách biến các nhân vật trong cả bài thi thiên này thành số nhiều vì cố gắng muốn tránh những điều phân biệt về giống, vốn xảy ra với các đại danh từ số ít.

Cách thức nhiều bản dịch áp dụng đối với vấn đề khoảng cách lịch sử có thể được ghi nhận rõ ràng hơn bằng cách minh họa nhiều loại vấn đề liên hệ.

1. Cân, đo, tiền bạc: Đây là một lãnh vực đặc biệt khó khăn. Ta nên chuyển tự các thuật ngữ Hi văn và Hi Bá Lai (ephah, homer, vv…) hay tìm các từ Anh ngữ tương đương? Nếu ta chọn cách đưa ra các từ ngữ tương đương về cân, lường, thì nên dùng “pounds” và “feet” để làm chuẩn, hay phải nhìn vào tương lai để dịch ra là “lít” và “mét”? Lạm phát có thể chế nhạo các từ ngữ tương đương về tiền bạc chỉ sau vài năm. Vấn đề còn phức tạp hơn do sự kiện các đơn vị đo lường hoặc tiền bạc thường được dùng để gợi ý về tương phản hoặc các hậu quả gây kinh ngạc, như trong Mat Mt 18:24-28 hay Esai 5:10. Trong những trường hợp này thì chuyển tự sẽ có khả năng làm cho độc giả Anh ngữ không nắm được luận điểm của khúc sách.

Bản KJV, được hai bản RSV và NRSV theo sát, vốn không nhất quán trong vấn đề này. Phần lớn các bản này đều chuyển tự, nên chúng ta gặp những “bát”, “ê-pha”, “ô-me”, “siếc-lơ” và “ta-lâng”. Thế nhưng, ’ammah trong Hi Bá Lai lại được dịch ra là “cu-đê”, zereth là gang (tay), còn mna (mina) trong Hi văn lại trở thành pound của người Anh, trong khi denarius lại chỉ trở thành đồng xu. Với người Hoa Kỳ thì tất cả những điều đó đều vô nghĩa hoặc dẫn đến chỗ hiểu sai.

Bản NASB dùng “cubit” và “span” nhưng ngoài trường hợp này ra, thì luôn luôn chuyển tự rồi ghi từ ngữ Anh văn tương đương ngoài lề (xem GiGa 2:6 chỗ phần chuyển tự được ghi ngoài lề!). Đây cũng là cách chọn của bản NIV ngoại trừ từ ngữ “cubits” được đổi ra feet, và tất cả các ghi chú bên lề đều có cả các chuẩn mực của người Anh lẫn các đơn vị đo lường tương đương. Tai hại thay, người ta lại chẳng chú thích gì cả trong Mat Mt 20:2 chỗ mà sự kiện đồng đơ-ni-ê (denarius) là tiền lương phổ biến hằng ngày vốn rất quan trọng để hiểu rõ ẩn dụ ấy; hơn nữa, trong Mac Mc 14:5 người ta lại hoàn toàn bỏ đi nguyên tắc này bằng cách dịch ba trăm đơ-ni-ê thành một giá trị tương đương là “tiền lương của hơn một năm.”

Bản Living Bible đổi tất cả thành các giá trị tương đương, nhưng thường lại không chính xác, và cách đổi đồng đơ-ni-ê thành Mỹ kim (đô-la) của những năm 1960, dù thế nào đi nữa cũng chỉ là một phương thức bất ổn.

Chúng tôi nghĩ rằng cả hai cách dùng các giá trị tương đương hoặc chuyển tự kèm theo phần ghi chú bên lề đều là phương thức tốt với phần lớn các đơn vị đo lường. Tuy nhiên cách sử dụng các giá trị tương đương chắc chắn được ưa chuộng hơn trong các khúc sách như Esai 5:10 và Mat Mt 18:24-28. Lưu ý cách dịch mấy câu sau đây để thấy bản GNB có nhiều ý nghĩa hơn bản NASB:

Ê-sai 5:10
NASB: “Mười mẫu vườn nho chỉ đem lại một bát rượu; một ô-me hột giống sẽ mang lại một ê-pha bột.”
GNB: “Nho trồng trên năm mẫu đất sẽ chỉ đem lại năm gallông rượu. Mười giạ hột giống sẽ chỉ mang lại một giạ mà thôi.”
Ma-thi-ơ 18:24, 28
NASB: “Có người đem nộp một tên kia mắc nợ một vạn ta-lâng…Nhưng khi đầy tớ đó ra về, gặp một người bạn cũng là nô lệ, thiếu mình một trăm đơ-ni-ê…”
GNB: “Có một tên trong đám họ mắc nợ người đến hàng triệu Mỹ kim … Rồi tên ấy đi ra, gặp một người bạn cũng là nô lệ, chỉ thiếu mình có vài Mỹ kim mà thôi.”

2. Uyển ngữ (euphemisms, lối nói gián tiếp): Hầu như tất cả các ngôn ngữ đều có các uyển từ cho các vấn đề tình dục hoặc vệ sinh. Một dịch giả có một trong ba cách chọn khi gặp các vấn đề ấy: (1) dịch đúng nguyên văn theo nghĩa đen, mặc cho độc giả bị ngỡ ngàng, hoặc phải tự phỏng đoán lấy, (2) dịch bằng một từ ngữ tương đương theo nghĩa đen, nhưng có lẽ gây khó chịu cho người đọc hoặc (3) dịch bằng một uyển từ tương đương.

Cách chọn thứ ba có lẽ là hay nhất, nếu có một uyển từ thích hợp. Nếu không thì tốt hơn là chọn giải pháp thứ hai, nhất là khi gặp các vấn đề nói chung chẳng đòi hỏi các uyển từ trong ngôn ngữ được dịch ra. Chẳng hạn như Ra-chên nói: “Con có kinh nguyệt” (Sáng Thế Ký 31:35 NIV, đối chiếu GNB) thì hay hơn là cách dịch theo nghĩa đen “con có việc riêng của phụ nữ” (NASB, đối chiếu KJV, RSV). Cùng một thành ngữ trong Sáng 18:11 bản GNB vẫn nhất quán (“Sa-ra không còn có kinh nguyệt nữa”), trong khi bản NIV thì dịch tự do hơn (“Sa-ra đã quá tuổi có con”). Cũng tương tự như thế, “Người cưỡng bức nàng, và nằm cùng nàng” (IISa 2Sm 13:14 KJV) trở thành khá đơn giản là “người cưỡng hiếp nàng” trong các bản NIV và GNB.

Tuy nhiên, trong vấn đề này có thể có nguy cơ, nhất là khi bản thân các dịch giả không nắm vững được ý nghĩa của thành ngữ, như ta có thể thấy trong cách cách dịch ICo1Cr 7:1 của NIV, GNB và LB là “Đàn ông không cưới vợ thì hay hơn.” Thành ngữ “đụng đến phụ nữ” trong tất cả các trường hợp khác thời xưa, có nghĩa là giao hợp với một phụ nữ, nhưng chẳng bao giờ có chút hàm ý gì với việc “cưới vợ.” Ở đây, bản NAB đã tìm được một uyển từ tương đương được ưa chuộng hơn “một người đàn ông chẳng có liên hệ gì với một phụ nữ thì hay hơn.”

3. Từ vựng. Khi một số đông người nghĩ đến vấn đề phiên dịch, thì đây là lãnh vực họ thường nghĩ đến nhất. Sự việc dường như chỉ là một việc làm đơn giản: tìm một từ ngữ trong ngôn ngữ cần dịch ra có cùng một ý nghĩa với từ ngữ Hi Bá Lai hoặc Hi văn. Nhưng tìm đúng chữ – chính là điểm khiến cho việc phiên dịch trở thành hết sức khó khăn. Một phần của sự khó khăn không những chỉ do việc chọn một từ ngữ trong ngôn ngữ cần được dịch ra cho thật thích hợp, mà còn phải chọn một chữ vốn không có những hàm ý xa lạ với nguyên văn.
Vấn đề còn trở thành phức tạp hơn cho sự kiện một số các từ ngữ Hi Bá Lai hoặc Hi văn vốn có khoảng rộng ý nghĩa khác với bất cứ một từ ngữ nào khác trong ngôn ngữ cần được dịch ra. Thêm vào đó, một số từ ngữ còn có nhiều nghĩa bóng, cũng như có hai hoặc nhiều nghĩa khác hẳn. Việc cố ý chơi chữ thường là điều không thể nào dịch từ một ngôn ngữ này sang một ngôn ngữ khác được.

Chúng tôi đã lưu ý nhiều bản dịch đã chọn nhiều cách khác nhau để giải nghĩa chữ “trinh nữ” trong ICor 7:36 như thế nào. Trong chương 1, chúng tôi cũng đã ghi nhận chỗ khó khăn khi dịch chữ sarx (“xác thịt”) theo cách dùng của Phao-lô. Trong phần lớn các trường hợp, hầu như chẳng còn có chữ nào hay hơn là chữ “xác thịt” theo nghĩa đen. Bản NIV vận dụng thật hay từ ngữ này: “bản tính tội lỗi” khi Phao-lô nêu lên điểm tương phản giữa “xác thịt” và “thần linh,” nhưng lại dịch là “bản tính con người” trong Rom 1:3 khi nó đề cập Chúa Giê-xu là hậu duệ của Đa-vít, “theo quan điểm của người thế gian” trong IICor 5:16 như đã lưu ý ở phần trên (đối chiếu ICor 1:26 “theo chuẩn mực của loài người”) và “thân thể” khi nó có nghĩa như thế (như trong ICor 1:22).

Điều này có thể minh họa nhiều lần và là một trong nhiều lý do khiến tại sao một bản dịch theo nguyên tắc tương đương năng động được ưa chuộng hơn nhiều, so với một bản dịch theo nghĩa đen, đúng nguyên văn từng chữ từng tiếng một.

4. Văn phạm và cú pháp. Tuy phần lớn các ngôn ngữ Ấn-Âu vốn có nhiều điểm tương đồng, mỗi ngôn ngữ đều có cách cấu trúc được ưa thích riêng về cách thức các từ ngữ và ý niệm có liên hệ với nhau như thế nào trong các câu. Chính tại các điểm đặc biệt này mà một bản dịch theo thuyết tương đương năng động được ưa chuộng hơn. Một bản dịch theo nghĩa đen có xu hướng lạm dụng hay “xem thường” các cấu trúc thông thường của ngôn ngữ được dịch ra bằng cách trực tiếp chuyển cú pháp và văn phạm của nguyên văn sang cho nó. Cách chuyển trực tiếp như thế thường có thể làm được đối với ngôn ngữ được dịch ra, nhưng rất ít khi được ưa chuộng. Từ mấy trăm thí dụ, chúng tôi xin chọn hai để minh họa, một từ Hi văn và một từ Hi Bá Lai.

a. Một trong nhiều đặc điểm của Hi văn là thường dùng các cấu trúc thuộc cách (genitive constructions). Thuộc cách là trường hợp bình thường của sở hữu cách, như trong “my book”. Quyền sở hữu đích thực đó còn có thể được dịch ra – nhưng một cách thô thiển – là “quyển sách của tôi” (the book of me). Tuy nhiên, chẳng hạn nhiều “sở hữu cách” khác trong Anh ngữ như “ân điển của Đức Chúa Trời” (God’s grace) vốn không thiên quá nhiều về ý nghĩa như Đức Chúa Trời sở hữu ân điển, cho bằng là Ngài ban nó ra hoặc nó xuất phát từ Ngài. Những điều sở hữu “không thật” như thế luôn luôn có thể dịch ra Anh ngữ là “ân điển của Đức Chúa Trời” (the grace of God).
Hi văn có vô số loại thuộc cách sau này, chẳng hạn như chúng được sử dụng làm tính từ mô tả, diễn tả nguồn gốc, nói lên các mối liên hệ đặc biệt giữa hai danh từ, vv… Một bản dịch đúng nguyên văn theo nghĩa đen hầu như bao giờ cũng chuyển những câu như thế sang Anh ngữ bằng một câu có chữ “của”, nhưng thường lại tạo ra nhiều hậu quả dị thường như “coals of fire” (RoRm 12:20) đã được lưu ý ở phần trên, hoặc “lời của quyền phép Ngài” (HeDt 1:3 KJV). Cả hai trường hợp này đều rõ ràng là tính từ hay thuộc cách mô tả, mà trong bản NIV được dịch chính xác hơn là “than đang cháy” và “lời quyền năng của Ngài” (his powerful word). Cũng tương tự như thế, hai câu “sự vững vàng của hi vọng” (ITe1Tx 1:3) và “niềm vui của Đức Thánh Linh” (1:6) của bản NASB đã được bản NIV dịch là “lòng kiên trì nhẫn nhục do hi vọng linh cảm” và “niềm vui do Đức Thánh Linh ban cho.” Những trường hợp này không những chỉ được ưa chuộng hơn mà sự thật còn chính xác hơn nữa, vì chúng đưa ra một câu Anh ngữ có ý nghĩa tương đương, chứ không phải là một câu văn dịch theo nghĩa đen theo cách diễn tả sự việc của Hi văn, điều mà trong Anh ngữ gần như là vô nghĩa.

Có một điều khá lý thú, là một trong những chỗ hiếm hoi khi bản KJV (được bản RSV noi theo, nhưng bản NASB thì không) đưa ra một câu dường như tương đương (ICo1Cr 3:9), nhưng các dịch giả đã hoàn toàn đánh mất ý nghĩa của thuộc cách. Rõ ràng là họ đã bị từ ngữ bạn đồng công (fellow-workers) dẫn đi lạc, do đó đã dịch là “Vì chúng tôi là những người cùng lao động với Đức Chúa Trời: anh em là ruộng của Đức Chúa Trời, anh em là nhà của Đức Chúa Trời.” Nhưng trong câu viết của Phao-lô, mỗi lần chữ Đức Chúa Trời xuất hiện đều rõ ràng là một thuộc cách sở hữu, với điểm nhấn mạnh cả trên chúng tôi (Phao-lô và A-bô-lô) lẫn anh em (Hội Thánh như ruộng và nhà của Đức Chúa Trời) đều thuộc về Ngài. Câu này đã được bản NIV dịch rất đúng là “vì chúng tôi là bạn cùng làm việc của Đức Chúa Trời; anh em là ruộng của Đức Chúa Trời, là nhà của Đức Chúa Trời.” Luận điểm của Phao-lô còn được bản NASB nêu lên rõ ràng hơn nữa: “Chúng tôi là bạn đồng công của Đức Chúa Trời, trong khi anh em là mùa màng Ngài vun trồng, nhà cửa Ngài xây cất.”

b. Trong Cựu Ước của bản KJV có đến hàng ngàn lần các dịch giả đã theo sát thứ tự các từ ngữ trong tiếng Hy Bá Lai nên không thể nào tạo ra được một thứ Anh ngữ bình thường, phù hợp với tính chất riêng của nó. Chẳng hạn như có bao giờ bạn thử chú ý xem có bao nhiêu mệnh đề (hay câu) trong bản KJV đã bắt đầu bằng chữ và (and) hay không? Hãy đọc Sáng Thế ký 1:1-31 và để ý là chỉ có một ngoại lệ duy nhất ở câu 1, tất cả các câu trong chương 1 đều bắt đầu bằng và, tổng cộng là ba mươi lần. Bây giờ hãy đối chiếu với bản NIV. Bản này đã rút bớt con số ấy xuống còn 11, trong khi đồng thời đã trau dồi được sự trôi chảy của ngôn ngữ khiến nó được nghe cách tự nhiên hơn.

Các dịch giả của bản NIV đã thực hiện và cải tiến bản dịch bằng cách coi trọng sự kiện đại đa số các câu văn xuôi trong bộ Cựu Ước tiếng Hy Bá Lai đều bắt đầu bằng một trong hai hình thức của nó khi dùng từ và. Thậm chí chữ và xuất hiện khi điều đi trước hoàn toàn chẳng có liên hệ gì với câu ấy. Thật vậy, sáu sách của Cựu Ước (Giô-suê, Các Quan Xét, I Sa-mu-ên, E-xơ-ra, Ru-tơ và Ê-xơ-tê) bắt đầu trong tiếng Hy Bá Lai bằng chữ và, tuy chúng chẳng tiếp theo cái gì cả. Các nhà ngữ pháp học về Hy Bá Lai văn hiện nay nhìn nhận rất đúng rằng chữ “và” ở đầu câu rõ ràng là cách dùng tương đương với việc dùng chữ hoa ở đầu các câu Anh ngữ. Nói như thế không có nghĩa là bảo rằng từ và của Hy Bá Lai văn chẳng bao giờ nên được dịch ra bằng từ và trong Anh ngữ, mà chỉ đơn giản có nghĩa rằng từ và chỉ đôi khi – và chắc chắn không phải là trong đại đa số các trường hợp – mới là cách dịch tốt sang Anh ngữ. Câu Anh ngữ đơn giản bắt đầu bằng một mẫu tự viết hoa sẽ hoàn thành mỹ mãn nhiệm vụ của nó trong phần lớn các trường hợp.

Một thí dụ khác nữa trong KJV là câu “and it came to pass.” Cách dùng này không còn được sử dụng trong Anh ngữ bình thường nữa và nó khá hiếm hoi, thậm chí hiếm hoi ngay trong thế kỷ thứ mười bảy lúc bản KJV được thực hiện. Vì dược dịch sát nghĩa đen và cứng nhắc theo hình thức trần thuật của động từ Hy bá Lai, hậu quả là bản dịch cũng luôn luôn có câu “and it came to pass” mà ta thấy rất nhiều trong Cựu Ước nhưng không hề thấy trong Anh ngữ. Có lần chúng tôi đã được nghe một bài giảng về ý niệm mọi sự đều tạm thời và cuối cùng đều sẽ qua đi (ICo1Cr 13:8-10) dựa trên việc thường xuyên xuất hiện của câu “and it came to pass” mà nhà truyền đạo lại hiểu lầm là có nghĩa rằng “và việc ấy đến để mà qua đi” (and it came in order to pass away). Thật vậy, các dịch giả của bản NIV đã làm đúng khi không dịch một mệnh đề như thế. Dịch tiếng Hy Bá Lai sang Anh ngữ theo phương pháp có phê phán cân nhắc đòi hỏi một ý nghĩa tương đương, chứ không phải là một chữ hay một mệnh đề tương đương.

Chọn Một Bản Dịch

Chúng tôi đang cố tìm cách giúp bạn chọn một bản dịch Kinh Thánh. Chúng tôi sẽ kết luận bằng vài nhận xét tóm tắt về một số các bản dịch.

Thứ nhất, cần lưu ý rằng chúng tôi đã không tìm cách kể ra thật đầy đủ. Vẫn còn nhiều bản dịch toàn bộ Kinh Thánh khác mà chúng tôi không đưa vào phần thảo luận của mình, đó là chưa nói đến bảy mươi lăm bản dịch Tân ước khác đã xuất hiện trong thế kỷ thứ hai mươi này. Nhiều bản được kể ở phần sau này thật tuyệt vời, rất đáng được sử dụng (thí dụ, bản Weymouth, 1903; bản Helen Montgomery, 1924; bản Williams 1937). Trong số này cũng có nhiều bản dịch tự do, hai trong số đó được ưa chuộng hơn cả bản Living Bible do mức độ chính xác cao của chúng (bản Phillips, 1947; bản F. F. Bruce – các thư tín của Phao-lô mà thôi – 1965).

Trong toàn thể các bản dịch Kinh Thánh không được bàn đến, một số có thiên kiến về phương diện thần học, như bộ New World Translation của Chứng Nhân Giê-hô-va (1961). Đây là một bản dịch theo sát nguyên văn (nghĩa đen) một cách cực đoan, đầy các tà thuyết của giáo phái này. Nhiều bản dịch khác trong số các bản dịch ấy lại lập dị như bản dịch của George Lamsa (1940) là người tin rằng bản dịch ra tiếng Sy-ri vào khoảng năm 400 S.C. chứa đựng những chiếc chìa khóa cho mọi sự. Có lẽ ta cũng nên đưa vào đây bộ Amplified Bible, từng nổi tiếng vượt xa giá trị của nó. Tốt nhất là nên dùng nhiều bản dịch, chú ý những điểm khác nhau giữa chúng, rồi soát xét lại các điểm dị biệt ấy bằng một nguồn tài liệu khác, còn hơn bị dẫn dụ để tin rằng một từ có thể có một trong nhiều nghĩa trong một câu nào đó, và người đọc bị bỏ mặc để tự chọn bất cứ nghĩa nào “đánh trúng” óc tưởng tượng của riêng mình.

Thế thì đâu là bản dịch bạn cần phải đọc? Chúng tôi xin mạo muội gợi ý rằng bản NIV là một bản dịch tốt như bạn sẽ thấy. Hai bản GNB và NAB cũng rất tốt. Tốt nhất là ta có hai hoặc cả ba trong số các bản dịch ấy. Bản NIV là một bản dịch do một ủy ban gồm các học giả giỏi nhất của truyền thống Tin Lành; bản NAB là một bản dịch do một ủy ban gồm các học giả giỏi nhất trong truyền thống Công giáo (La Mã) tại Hoa Kỳ. Bản GNB là một bản dịch vượt trội do chỉ một học giả duy nhất là Robert G. Bratchen, người thường xuyên tham khảo ý kiến của nhiều người khác, và những chuyên gia về ngữ học đã đưa ý niệm về tương đương năng động vào công tác phiên dịch cách triệt để.
Cùng với một hoặc nhiều hơn các bản dịch này, bạn cũng nên dùng một hoặc nhiều bản dịch sau đây: bản NASB, RSV hoặc bản NRSV. Các bản này cố tìm cách cập nhật hóa bản KJV. Các dịch giả đã sử dụng các nguyên bản tốt nhất, do đó loại trừ được hầu hết các nội dung không phải là nguyên tác trong bản KJV. Đồng thời họ còn cố bám càng sát càng tốt vào ngôn ngữ của bản KJV mà vẫn hiện đại hóa nó một phần. Các bản RSV và NRSV là những bản dịch tốt hơn nhiều; bản NASB giống với bản KJV nhiều hơn, do đó, theo nghĩa đen nhiều hơn – đến độ trở thành cứng nhắc.

Cùng với một hoặc nhiều hơn những bản này, chúng tôi cũng dặn dò bạn nên tham cứu hoặc là bản NEB hoặc là bản JB – hoặc cả hai. Cả hai bản này đều do các uỷ ban phiên dịch thực hiện. Bản NEB là sản phẩm của công trình khảo cứu hoàn bị nhất của Anh quốc, do đó có rất nhiều thành ngữ Anh ít quen thuộc với các độc giả người Mỹ. Bản JB là một bản dịch Anh ngữ từ bản dịch Pháp ngữ Bible de Jerusalem. Cả hai bản dịch này đều thỉnh thoảng có xu hướng tự do hơn các bản dịch khác đã được mô tả ở đây như là tương đương năng động. Nhưng cả hai đều có những nét đặc trưng nổi bật và đều xứng đáng được sử dụng cùng với các bản dịch khác.

Trong các chương tiếp theo sau đây, chúng tôi sẽ theo bản NIV, trừ các trường hợp đặc biệt được ghi chú. Nếu bạn thường xuyên đọc bản dịch này rồi, bạn hãy tra cứu ít nhất một bản dịch khác (RSV /NRSV /NASB /GNB /NAB /NEB /JB), như thế bạn sẽ tự tạo cho mình một khởi điểm tốt để đọc và nghiên cứu Kinh Thánh cách sáng suốt.

Các Thư Tín: Tập Suy Nghĩ Theo Bối Cảnh

Chúng ta bắt đầu tìm hiểu những loại văn thể khác nhau trong Kinh Thánh bằng cách khảo sát các Thư tín Tân Ước. Một trong nhiều lý do là vì các thư tín có vẻ dễ giải nghĩa. Nói cho cùng, thì ai là người cần giúp đỡ đặc biệt để hiểu rằng “mọi người đều đã phạm tội” (Rom 3:23), rằng “tiền công của tội lỗi là sự chết” (RoRm 6:23), và “ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu” (Eph 2:8), hay mệnh lệnh “hãy bước đi theo Thánh Linh” (Gal 5:16) và “hãy bước đi trong sự yêu thương” (Eph 5:2)?

Mặt khác, chỗ “dễ” giải thích của các Thư tín cũng rất dễ làm chúng ta lầm lẫn, đặc biệt là trong công tác giảng kinh (hermeneutics). Chỉ cần thử hướng dẫn một nhóm học Kinh Thánh với sách I Cô-rinh-tô chẳng hạn, ta sẽ thấy bao nhiêu điều khó khăn. Có người thắc mắc: “Làm sao xem ý kiến của Phao-lô (ICo1Cr 7:25) như Lời Chúa được?” nhất là khi chính họ không thích một vài ẩn ý trong ý kiến ấy? Và các thắc mắc cứ tiếp tục. Việc dứt phép thông công trong chương 5 liên hệ thế nào với Hội Thánh ngày nay, nhất là khi chỉ cần băng qua đường là đã có một nhà thờ khác rồi? Luận điểm của các chương 12-14 là gì nếu ta ở trong một chi hội địa phương mà các ân tứ thuộc linh lại không được chấp nhận là có giá trị cho thế kỷ thứ hai mươi? Ta phải làm thế nào để biết 11:2-16 ý muốn nói là phụ nữ phải trùm đầu khi cầu nguyện và nói tiên tri – hay là phụ nữ được cầu nguyện và nói tiên tri khi hội chúng nhóm lại để thờ phượng?

Rõ ràng các Thư tín không dễ giải nghĩa như ta thường nghĩ. Vì tầm quan trọng của chúng đối với đức tin Cơ Đốc nhân cũng như vì nhiều vấn đề giảng kinh quan trọng nẩy sinh ở đây, nên chúng tôi dùng chúng làm kiểu mẫu cho vấn đề giải kinh (exegetical) và giảng kinh (hermeneutics) được nêu lên trong sách.

Bản Chất của Các Thư Tín

Trước khi khảo sát I Cô-rinh-tô như một kiểu mẫu giải nghĩa các Thư tín, ta cần biết một số điểm tổng quát về các Thư tín (toàn bộ Tân Ước ngoại trừ bốn sách Phúc Âm, sách Công Vụ, và sách Khải Thị).

Thứ nhất, cần lưu ý rằng bản thân các Thư tín không phải là một thể loại đồng nhất. Nhiều năm về trước, Adolf Deissmann, căn cứ vào một lượng lớn các phát hiện giấy chỉ thảo, đã phân biệt các bức thư (letters) và các thư tín (epistles). Những bức thư, như tên gọi, vốn không có giá trị văn chương, nghĩa là chúng vốn không được viết cho công chúng và hậu thế, mà chỉ nhắm vào một hoặc nhiều người mà chúng đã được gởi đến. Trái lại, thư tín là một hình thức nghệ thuật văn chương hay một loại văn chương có ý định nhắm vào công chúng. Chính Deissmann xem toàn bộ các thư tín của Phao-lô cũng như các thơ II, III Giăng là các “bức thư thật sự.” Tuy một số học giả khác đã thận trọng lưu ý rằng ta không nên liệt tất cả các bức thư của Tân-Ước vào loại này hoặc loại kia, nhưng dù sao thì sự phân biệt vẫn có giá trị. Sách Rô-ma và Phi-lê-môn khác nhau chẳng những chỉ về nội dung, mà cả về mức độ sách này có tính cách cá nhân vượt xa sách kia. Tương phản với các bức thư của Phao-lô, thư II Phi-e-rơ và I Giăng giống với các Thư tín hơn nhiều.

Ta có thể nhận thấy giá trị của sự phân biệt này bằng cách lưu ý hình thức các bức thư cổ. Chúng cũng có tiêu chuẩn (đề ngày, lời chào, phần thân, phần kết thúc và chữ ký) như tiêu chuẩn cho các bức thư của chúng ta ngày nay. Hàng ngàn những bức thư cổ đã được tìm thấy, và phần lớn chúng đều có hình thức y hệt các bức thư trong Tân Ước (xem bức thư của giáo hội nghị trong Cong Cv 15:23-29). Hình thức của một bức thư gồm có sáu phần:

1. Tên người viết (ví dụ, Phao-lô)
2. Tên người nhận (ví dụ, cho Hội Thánh của Đức Chúa Trời tại Cô-rinh-tô)
3. Lời chào thăm (ví dụ, Nguyền xin ân điển và sự bình an của Đức Chúa Trời là Cha giáng trên anh em).
4. Lời cầu nguyện và bộc lộ lòng mong ước hoặc lời cảm tạ (ví dụ, tôi luôn luôn vì anh em cảm tạ Đức Chúa Trời…).
5. Phần thân của bức thư.
6. Lời chào từ biệt (ví dụ, nguyền xin ân điển của Chúa Cứu Thế Giê-xu ở cùng anh em).

Yếu tố duy nhất có thay đổi trong hình thức này là số 4, trong đó phần lớn các bức thư cổ có hình thức của một lời cầu nguyện bày tỏ nguyện vọng (hầu như y hệt với III Giăng câu1,2), hoặc nếu không phải như thế thì bỏ hẳn đi (như Ga-la-ti, I Ti-mô-thê, Tít) tuy thỉnh thoảng người ta thấy có một lời cảm tạ hoặc cầu nguyện (như thường thấy trong các bức thư của Phao-lô). Ba trong số các Thư tín Tân Ước, lời cảm tạ này được chuyển thành một bài ca tụng (II Cô-rinh-tô, Ê-phê-sô, I Phi-e-rơ, so sánh KhKh 1:5-6).

Cần lưu ý rằng các Thư tín trong Tân Ước bị thiếu các yếu tố 1-3 hoặc 6 sẽ không phải là những bức thư thật sự, tuy chúng cũng có mang hình thức Thư tín. Chẳng hạn như thư Hê-bơ-rơ, vốn được mô tả như có ba phần của một truyền đạo đơn và một phần của một bức thư, lẽ dĩ nhiên phải được gởi đến cho một nhóm người cụ thể, như HeDt 10:32-34 và 13:1-25 chỉ rõ. Chú ý kỹ hình thức bức thư trong 13:22-25. Thế nhưng các chương 1-10 rất ít giống với một bức thư mà thật ra là một bài giảng trình bày sự cao trọng của Đấng Christ đi kèm với những lời khuyến giục độc giả hãy neo chặt đức tin nơi Đấng Christ (2:1-4; 3:7-19; 5:11-6:20; 10:19-25). Tác giả gọi đó là “những lời khuyên bảo” của mình (13:22).

Thư I Giăng cũng có vài điểm tương tự, ngoại trừ việc nó không mang một yếu tố hình thức của một bức thư. Dù vậy, rõ ràng là nó được viết cho một nhóm người cụ thể (xem IGi1Ga 2:7, 12-14, 19, 26) và trông có vẻ rất giống phần thân của một bức thư với tất cả các yếu tố về hình thức đều bị xén đi mất. Điều đáng lưu ý là nó không đơn giản chỉ là một luận án thần học cho Hội Thánh nói chung.

Hai thư Gia-cơ và II Phi-e-rơ đều có phần lời chào, nhưng cả hai đều thiếu lời chào từ biệt quen thuộc; cả hai cùng thiếu các lời chào cụ thể cũng như không có lời dặn dò cá nhân nào của các tác giả. Đây là những điểm rất giống với các “Thư tín” Tân Ước – các truyền đạo đơn gởi cho toàn thể Hội Thánh, mặc dầu dường như thư II Phi-e-rơ được viết vì có một số người phủ nhận sự Tái Lâm của Chúa Cứu Thế (IIPhi 2Pr 3:1-7;). Mặt khác, sách Gia-cơ thiếu hẳn phần luận cứ chung khiến nó giống một bộ sưu tập các ghi chú bài giảng về nhiều vấn đề liên quan đến luân lý đạo đức hơn là một bức thư.

Tuy có sự khác nhau về thể loại, tất cả các Thư tín đều có một điểm chung quan trọng cần lưu ý trong việc đọc và giải nghĩa chúng: chúng là những văn kiện tùy dịp (hay tùy cơ hội: được viết và được chủ định vì một dịp tiện cụ thể), và chúng có từ thế kỷ thứ nhất. Mặc dầu được Đức Thánh Linh cảm thúc và do đó thuộc về mọi thời đại, chúng được viết từ bối cảnh của tác giả cho bối cảnh của các độc giả đầu tiên. Chính những yếu tố này – tùy cơ hội và thuộc thế kỷ thứ nhất – đôi khi khiến việc giải nghĩa trở thành khó khăn.
Trước hết, cần xem xét cách nghiêm túc tính chất tùy dịp của chúng. Các Thư tín này được viết do hoàn cảnh đặc biệt từ phía độc giả hoặc từ phía tác giả đòi hỏi. Hầu hết các bức thư Tân Ước đều từ phía độc giả đòi hỏi (sách Phi-lê-môn và có lẽ hai thư Gia-cơ và Rô-ma là những ngoại lệ). Thường thường thì biến cố là cách ăn ở, cư xử cần sửa, hoặc một sai lệch về giáo lý cần chấn chỉnh, hoặc một sự hiểu lầm cần được làm sáng tỏ hơn.

Chúng ta thường gặp khó khăn khi giải nghĩa các Thư tín do tính chất tùy dịp của chúng. Chúng ta có câu trả lời, nhưng không phải lúc nào cũng biết các câu hỏi hay vấn đề đã xảy ra, hoặc thậm chí chẳng biết có vấn đề đó hay không. Điều này giống như ta nói điện thoại và cố hình dung ra ai là người đang ở đầu dây bên kia và người ta không thấy đó đang muốn nói gì. Thế nhưng trong rất nhiều trường hợp, cố ý lắng nghe “đầu dây bên kia” là một điều đặc biệt quan trọng, để chúng ta biết khúc sách của mình trả lời cho vấn đề gì.

Còn một điểm nữa cần lưu ý. Tính chất tùy cơ hội của các Thư tín có nghĩa mục đích trước nhất của chúng không phải là khảo luận thần học; chúng không phải là những bài tóm lược thần học của Phao-lô hay Phi-e-rơ. Các Thư tín đều hàm chứa thần học, nhưng là “thần học thực hành”, thần học được viết cho, hoặc nêu ra là vì nó có liên quan với nhiệm vụ trước mắt. Điều này đúng ngay cả với thư Rô-ma, một thư chứa đựng các vấn đề thần học của Phao-lô cách đầy đủ và hệ thống hơn bất cứ chỗ nào khác. Nhưng đây mới chỉ là một phần thần học của ông mà thôi, và trong trường hợp này thần học nảy sinh từ nhiệm vụ đặc biệt của ông trong cương vị sứ đồ cho các dân ngoại. Đó là cuộc tranh chiến của ông vì quyền lợi của dân ngoại đối với ân sủng của Đức Chúa Trời, và cách nó liên hệ với toàn bộ vấn đề “luật pháp” khiến cho cuộc tranh luận mang hình thức đặc biệt như ta thấy trong thư Rô-ma, và dẫn đến việc sử dụng sự xưng công nghĩa là hình bóng chính yếu cho sự cứu rỗi. Cuối cùng, chữ xưng công nghĩa vốn chiếm ưu thế trong thư Rô-ma (15 lần), thư Ga-la-ti (8 lần) chỉ xuất hiện hai lần nữa trong toàn bộ các thư khác của Phao-lô (ICor 6:11; Tit 3:7).

Như thế ta liên tục nghiên cứu các Thư tín để tìm hiểu thần học Cơ Đốc chúa đựng trong đó. Nhưng ta cũng phải nhớ rằng mục đích của chúng trước hết không phải là để diễn giải thần học Cơ Đốc. Nó luôn luôn là thần học phục vụ cho một nhu cầu đặc biệt. Chúng ta sẽ xem xét những ẩn ý liên quan với vấn đề giảng kinh trong chương kế tiếp.

Sau khi nắm được những điểm quan trọng, ta sẽ tiến hành việc giải nghĩa các Thư tín như thế nào? Từ đây trở đi, chúng ta sẽ nghiên cứu I Cô-rinh-tô như là trường hợp điển hình. Không phải tất cả các Thư tín đều giống Thư tín này, nhưng hầu hết các câu hỏi cần dùng nghiên cứu bất kỳ một Thư tín nào cũng đều được nêu ra ở đây.
Bối Cảnh Lịch Sử
Điều đầu tiên cần làm đối với bất luận Thư tín nào là cố gắng tái dựng tình trạng mà tác giả đang nói đến. Điều gì đã xảy ra tại Cô-rinh-tô khiến Phao-lô phải viết thư I Cô-rinh-tô? Làm sao ông biết được tình trạng này? Trước đó, ông có mối liên hệ và tiếp xúc với họ thế nào? Bức thư này cho thấy thái độ của họ và của ông như thế nào? Đó là các câu hỏi mà bạn cần trả lời. Bạn phải làm gì đây?

Thứ nhất, bạn cần tra cứu Thánh Kinh Từ Điển hoặc phần dẫn nhập trong sách giải nghĩa của bạn để tìm hiểu càng nhiều càng tốt về thành phố Cô-rinh-tô và cư dân của nó (cũng như về Hội Thánh tại Cô-rinh-tô và các tín hữu ở đó). Một điều quan trọng mà bạn cần biết là theo các tiêu chuẩn cổ thì thành phố này tương đối hãy còn trẻ, được thành lập chỉ chín mươi bốn năm khi Phao-lô đến thăm lần đầu tiên. Nhưng nhờ vị trí chiến lược cho việc giao thương, nó là thành phố quốc tế, giàu có, nơi qui tụ các sinh hoạt nghệ thuật, tôn giáo (có ít nhất hai mươi sáu ngôi đền miếu), và nổi tiếng dâm dục. Chỉ cần hơi chịu khó đọc và tưởng tượng, ta có thể thấy nó là điểm hội tụ của một chút New York, Los Angeles và Las Vegas. Vì vậy, khó có thể nói rằng đây là bức thư gửi Hội Thánh tại một vùng quê hẻo lánh. Bạn cần nhớ những điều nầy khi đọc để nhận ra thế nào nó sẽ ảnh hưởng đến cách hiểu của bạn gần như ở mỗi trang sách.

Thứ hai, để đạt được mục đích nghiên cứu, bạn cần phát triển thói quen đọc cả bức thư một lần. Bạn cần để ra khoảng một giờ để làm việc này. Không điều gì có thể thay thế công việc này. Đây là cách chúng ta đọc tất cả các bức thư khác. Các bức thư trong Kinh Thánh cũng chẳng có gì khác cả. Có một số điều mà bạn phải tìm trong khi đọc, nhưng bạn không nên cố tìm cách để hiểu ngay ý nghĩa của từng chữ hoặc từng câu một. Điều quan trọng đầu tiên là có cái nhìn bao quát.

Dầu nhấn mạnh đến bao nhiêu chúng tôi nghĩ vẫn chưa đủ đối với tầm quan trọng của việc phải đọc đi đọc lại. Một khi bạn đã chia được bức thư ra thành nhiều phần hoặc nhiều đoạn hợp lý rồi, bạn sẽ cần bắt đầu nghiên cứu từng đoạn đúng y theo cách trên.

Sau khi đã đọc qua cả bức thư, bạn cần viết ra một vài ghi chú thật vắn tắt. Điều này rất bổ ích cho bạn, đặc biệt cho những người kém trí nhớ. Bạn phải viết gì khi đọc cả bức tranh rộng lớn kia? Nên nhớ mục đích đầu tiên ở đây là tái tạo vấn đề, vì thế chúng tôi gợi ý về bốn loại ghi chú:

1. Những điều bạn ghi nhận được về những người nhận thư, chẳng hạn như là người Do Thái hay người Hi Lạp, giàu có hay nô lệ, các vấn đề, thái độ của họ v.v.

2. Những thái độ của Phao-lô.

3. Những điểm cụ thể được đề cập liên hệ đến cơ hội đặc biệt để viết bức thư này.

4. Bố cục tự nhiên và hợp lý của bức thư.

Nếu bạn không thể làm một lần tất cả những điều trên đây thì trước hết hãy đọc qua bức thư, rồi sau đó quay trở lại bằng cách đọc lướt qua để lấy ra các chi tiết muốn ghi chú. Sau đây là các sự việc có lẽ bạn đã chú ý được tập họp lại thành từng nhóm theo bốn loại đã gợi ý.

1. Các tín hữu Cô-rinh-tô đa số là dân ngoại, tuy cũng có vài người Do Thái (xem ICo1Cr 6:9-11; 8:10; 12:2, 13), họ yêu thích sự khôn ngoan và kiến thức (1:18-2:5; 4:10; 8:1-13; do đó 6:5 chứa đựng một lời mỉa mai), họ kiêu ngạo và tự thị tự mãn (4:18; 5:2, 6) thậm chí đến độ chỉ trích cả Phao-lô (4:1-5; 9:1-18); thế nhưng họ lại gặp nhiều vấn đề nội bộ.

2. Thái độ của Phao-lô thay đổi giữa quở trách (4:8-21; 5:2; 6:1-8), kêu gọi (4:14-17; 16:10-11) và khuyên giục (16:18-20, 12-14).

3. Về cơ hội viết thư, có lẽ bạn đã thấy trong 1:10-12, Phao-lô nói ông đã được người nhà của Cơ-lô-ê báo cho biết; 5:1 cũng đề cập đến thông tin đã nhận được. Trong 7:1 ông nói: “Luận đến các vấn đề anh em viết trong thư” có nghĩa là ông cũng đã nhận được bức thư Hội Thánh đã gửi. Bạn có lưu ý những chữ “luận đến, về …việc, còn như” được nhắc đi nhắc lại trong 7:25; 8:1; 12:1; 16:1; 16:12 hay không? Có lẽ tất cả đều là các chi tiết rút ra từ lá thư của họ mà mỗi lần ông chỉ nêu ra một vấn đề thôi. Một điều khác nữa: Bạn có chú ý đến việc “đến” của Sê-pha-na, Phốt-tu-ra và A-chai-cơ trong 16:17 không? Vì Sê-pha-na là người được “kính phục” (c.16), chắc chắn mấy người này (hoặc ít nhất là Sê-pha-na) cũng là cấp lãnh đạo Hội Thánh. Có lẽ họ được ủy quyền đem bức thư đến cho Phao-lô.
Nếu bạn không thấy tất cả những điều này, xin đừng bỏ cuộc. Chúng tôi đã nghiên cứu Thư tín này nhiều lần nên trở nên quen thuộc. Điều quan trọng là bạn phải học đọc cách cẩn thận để tìm ra những manh mối như thế.

4. Bây giờ vấn đề quan trọng là phân chia bố cục cho bức thư. Điều này đặc biệt quan trọng đối với I Cô-rinh-tô, vì nghiên cứu hay đọc sách này với các sự kiện được tập hợp cách thuận lợi như thế thì dễ dàng hơn nhiều. Không phải tất cả các thư của Phao-lô đều được viết theo trình tự chi tiết như vậy. Thiết lập một bố cục sẽ luôn luôn hữu ích.

Chỗ phải bắt đầu là với các phần lớn. Trong trường hợp này thì 7:1 là đầu mối chính. Đây là lần đầu tiên Phao-lô đề cập bức thư họ viết cho ông, và trong 1:10-12 và 5:1 ông đề cập các vấn đề mà người ta đã kể lại với ông, nên chúng ta có thể cho rằng các vấn đề trong các chương 1-6 đều là những câu trả lời cho những gì ông đã nghe kể lại. Những câu nhập đề và chủ đề đều là đầu mối cho tất cả các phần khác trong bức thư này. Có bốn phần trong sáu chương đầu:

vấn đề chia rẽ trong Hội Thánh (1:10-4:21)
vấn đề kẻ loạn luân (5:1-13)
vấn đề thưa kiện (6:1-11)
vấn đề tà dâm (6:12-20)

Chúng ta đã lưu ý các đầu mối để lập bố cục cho hầu hết các chương từ 7-16 căn cứ trên công thức nhập đề là “Luận đến.” Có ba tiết mục không được giới thiệu bằng công thức nhập đề đó là 11:2-16; 11:17-34; 15:1-58. Có lẽ ông cũng nghe kể lại những chi tiết trong chương 11 (ít nhất trong 11:17-34) và được đưa vào đây vì các chương 8-14 đều liên quan với sự thờ phượng theo một cách thức nào đó. Ta không biết chắc chương 15 là lời đáp cho điều ông đã được nghe kể lại hay cho bức thư trước. Câu “sao trong anh em có kẻ nói rằng” ở câu 12 chẳng giúp được gì nhiều vì Phao-lô có thể trích nó từ điều ông được nghe kể lại, hoặc từ bức thư của họ. Dù sao thì phần còn lại của bức thư rất dễ lập bố cục:

về cách ăn ở giữa vợ chồng (7:1-24);
về các trinh nữ (7:25-40);
về của cúng thần tượng (8:1-11:1);
sự trùm đầu của phụ nữ trong Hội Thánh (11:2-16);
sự lạm dụng Bàn Tiệc Thánh (11:17-34);
về các ân tứ thuộc linh (12:1-14:40);
sự phục sinh thân thể của tín hữu (15:1-58);
về việc góp tiền (16:1-11);
về việc trở lại của A-bô-lô (16:12);
những lời khuyến giục và chào thăm từ biệt (16:13-24).

Có lẽ nếu theo cách chia phần trong bản Kinh Thánh Anh ngữ NIV, bạn không thấy một phần ở 7:25, hoặc bạn chia các chương 1:1-4:21, 8:1-10:33; 12:1-14:40 thành nhiều nhóm nhỏ hơn. Nhưng bạn có thấy rằng ba phần cuối đều là những đơn vị hoàn chỉnh? Thí dụ, cần lưu ý rằng cả chương 13 nằm trong phần luận cứ của chương 12:1-14:40 do việc các ân tứ Thánh Linh cụ thể được nêu trong câu 1-2 và 8.
Trước khi tiếp tục, có hai điều chúng ta cần lưu ý: (1) Còn một chỗ duy nhất khác trong các bức thư của Phao-lô mà ông nêu lên một chuỗi những tiết mục độc lập tiếp theo nhau như thế này là ở ITesalonica 4:1-5:27. Về cơ bản, hầu hết các bức thư khác được cấu thành bằng một luận cứ thật dài, mặc dầu nhiều khi luận cứ ấy có nhiều phần. (2) Đây chỉ là một bố cục gợi ý. Chúng ta chỉ thấy được cơ hội viết bức thư này trên bề mặt mà thôi, tức là một bản tường trình được kể lại và một bức thư. Nhưng điều chính yếu cho từng vấn đề tại Cô-rinh-tô đòi hỏi phải có câu trả lời cụ thể của Phao-lô. Do đó, vì mục đích nghiên cứu của chúng ta, chúng tôi dành thì giờ còn lại để đi sâu vào một tiết mục thôi: vấn đề chia phe lập đảng trong chương 1-4.

Bối Cảnh Lịch Sử I Cô-rinh-tô 1:1-4:21

Khi đi vào từng phần nhỏ hơn của bức thư, bạn cần làm lại những gì chúng ta vừa mới thực hiện ở trên. Nếu chúng tôi giao cho bạn một bài tập cho từng bài học, bài tập ấy sẽ đại khái như thế này: (1) Hãy đọc qua ICo1Cr 1:1-4:21 ít nhất hai lần (tốt nhất bằng hai bản dịch khác nhau). Xin nhắc lại là bạn đọc lần đầu để có một bức tranh rộng lớn, có “cảm nhận” về toàn thể lý luận trong đó. Sau khi bạn đã đọc qua lần thứ hai (hoặc thậm chí lần thứ ba, thứ tư nếu bạn muốn đọc từng bản dịch mình có), hãy quay trở lại và (2) liệt kê trong quyển sổ tay tất cả các chi tiết về những người nhận bức thư này và vấn đề của họ. Ở đây bạn cần quan sát kỹ, và liệt kê mọi sự việc, có thể sau khi rà soát lại, bạn muốn trở lại để xóa bớt một vài tiết mục không hoàn toàn thích hợp. (3) Rồi lập một bảng liệt kê khác gồm là những chữ chìa khóa và những câu được nhắc đi nhắc lại cho thấy vần đề chính mà Phao-lô muốn trả lời.

Một trong những lý do khiến chúng tôi chọn phần này làm mẫu không chỉ vì nó rất quan trọng trong thơ I Cô-rinh-tô, nhưng cũng vì nó là phần khó nhất. Nếu bạn đã đọc kỹ cả đoạn này và quan sát kỹ lưỡng vấn đề, có lẽ bạn nhận thấy và thậm chí còn bực bội bởi vì mặc dầu Phao-lô bắt đầu đề cập vấn đề cách cụ thể (1:10-12), nhưng phần đầu câu trả lời của ông (1:18-3:4) dường như đã chẳng đá động gì đến vấn đề ấy cả. Thật vậy, thoạt tiên ta có thể nghĩ rằng 1:18-3:4 là một đoạn lạc đề, ngoại trừ việc Phao-lô đã không lý luận lệch hướng và trong phần kết luận ở 3:18-23 “sự khôn ngoan” và “sự dại dột” (ý tưởng chính trong 1:18-3:4) được nối kết với sự “khoe khoang về loài người” và việc đề cập đến Phao-lô, A-bô-lô và Sê-pha. Vì vậy ta cần xét xem chúng ăn khớp với nhau như thế nào để phát hiện ra vấn đề.

Chỗ để bắt đầu là chú ý điều Phao-lô nêu lên. Trong 1:10-12 ông bảo rằng họ chia rẽ nhân danh các người lãnh đạo của họ (so sánh 3:4-9; 3:21-22; 4:6). Nhưng bạn có thấy rằng sự chia rẽ không phải chỉ là vấn đề bất đồng ý kiến giữa họ mà thôi? Thật ra là họ đang cãi nhau (1:12; 3:3) và “tự hào vì người này hơn người kia” (4:6; đối chiếu 3:21).

Tất cả những điều đó dường như khá rõ ràng. Nhưng nếu rà soát vấn đề lần nữa ta sẽ thấy hai việc khác xuất hiện.

1. Dường như đã có chút “xích mích” giữa Hội Thánh và bản thân Phao-lô. Điều này trở nên rõ ràng trong 4:1-5; và 4:18-21. Nếu ghi nhận như vậy, ta có thể cho rằng chuyện gây gỗ và chia rẽ không chỉ đơn giản là vấn đề họ thích A-bô-lô hơn Phao-lô, mà thật ra là họ đang chống lại Phao-lô.

2. Một trong những chữ chìa khóa trong phần này là khôn ngoan (26 lần trong các chương 1-3, và chỉ có thêm 18 lần nữa trong toàn bộ các bức thư của Phao-lô). Rõ ràng đây là từ ngữ được dùng với hàm ý mỉa mai, chứ không có nghĩa tích cực. Đức Chúa Trời đã ra tay để đánh đổ sự khôn ngoan của đời này (1:18-22, 27-28, 3:18-20). Ngài đã làm việc ấy bằng thập tự giá (1:18-25), bằng việc chọn các tín hữu người Cô-rinh-tô (1:26-31), và bằng sự yếu đuối của Phao-lô trong khi giảng dạy (2:1-5;). Bởi thập tự giá, Chúa Cứu Thế đã trở thành sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời cho chúng ta (1:30); và sự khôn ngoan này đã được Đức Thánh Linh “bày tỏ” cho những người có Đức Thánh Linh (2:10-16). Cách dùng chữ “khôn ngoan” trong lý lẽ của Phao-lô cho ta thấy đây là một phần nguyên nhân của sự chia rẽ. Nhưng sự việc đã xảy ra như thế nào? Ít nhất chúng ta cũng có thể đoán ra rằng họ chia rẽ vì mượn danh những người lãnh đạo và chống đối Phao-lô vì cho rằng mình khôn ngoan.

Bất cứ điều gì chúng ta nói vượt ra ngoài điểm đó đều sẽ nằm trong sự suy diễn hoặc phỏng đoán. Vì chữ khôn ngoan cũng là một thuật-ngữ triết học, và vì đủ loại triết gia lưu động vốn đầy dẫy trong thế giới Hy Lạp vào thời của Phao-lô, chúng ta có thể nghĩ rằng các tín hữu người Cô-rinh-tô đang bắt đầu suy nghĩ về niềm tin Cơ-đốc mới của họ như là một sự “khôn ngoan thiên thượng” mới mẻ, từ đó khiến họ đánh giá các lãnh đạo của họ theo cách loài người, xem những người lãnh đạo của họ cũng chỉ như các triết gia lưu động kia mà thôi. Nhưng điều cần lưu ý là cho dù cách “phỏng đoán” này có hữu ích đến đâu, nó đã vượt quá điều chính bản văn nói.

Theo câu trả lời của Phao-lô thì có ba điều có thể được xem là chắc chắn: (1) Căn cứ vào 3:5-23, rõ ràng là họ đã hiểu lầm bản chất và chức năng lãnh đạo trong Hội Thánh. (2) Tương tự như thế, căn cứ vào 1:18-3:4, dường như họ cũng hiểu lầm cả bản chất căn bản của Phúc Âm nữa. (3) Dựa vào 4:1-21 họ cũng sai lầm trong cách họ chỉ trích Phao-lô, và họ cần phải thẩm định lại mối liên hệ giữa họ với ông. Bạn sẽ nhận thấy rằng với phần ghi nhận này, bây giờ chúng ta đã bắt đầu chuyển sang việc phân tích câu trả lời của Phao-lô.
Văn Mạch

Bước kế tiếp để nghiên cứu các Thư tín là tìm hiểu lập luận của Phao-lô để trả lời cho vấn đề mà chúng ta đã giả định ở phần trên. Chương 1 đã cho bạn biết rằng bạn có thể thực hiện điều này mà không phải tham khảo ý kiến các học giả.

Nếu phải cho bạn một bài tập về phần này trong “bài học”, nó sẽ đại khái như sau: Cho biết lập luận của ICo1Cr 1:10-4:21 theo từng phân đoạn, rồi dùng một hoặc hai câu để giải thích luận điểm của từng phân đoạn đối với toàn bộ vấn đề, hoặc cho biết nó đóng vai trò như thế nào trong câu trả lời của Phao-lô cho vấn đề chia rẽ.

Chúng tôi không thể nhấn mạnh hết tầm quan trọng của việc tập SUY NGHĨ TỪNG PHÂN ĐOẠN, không phải chỉ đơn giản như những đơn vị tư tưởng tự nhiên, mà là chìa khóa cần thiết để nắm vững phần lý luận trong các thư tín khác. Cần nhớ rằng một trong những câu hỏi bạn phải lặp đi lặp lại là Luận điểm ở đây là gì? Do đó, bạn sẽ cần làm được hai việc: (1) Phải tóm lược nội dung của từng phân đoạn. Phao-lô nói gì trong phân đoạn này? (2) Trong một hoặc hai câu, hãy giải thích tại sao bạn lại nghĩ rằng Phao-lô nói điều này tại đây. Nội dung này góp phần thế nào cho lập luận?

Vì không thể thực hiện điều này cho cả ICo1Cr 1:1-4:21, chúng ta sẽ đi vào một số chi tiết với ba phân đoạn quan trọng trong phần thứ hai của câu trả lời của Phao-lô, tức là 3:5-16. Cho đến bây giờ, bởi sự hướng dẫn của Thánh Linh, Phao-lô điều chỉnh kiến thức non nớt của họ về Phúc Âm bằng cách cho họ thấy rằng trọng tâm của Phúc Âm – Đấng Mết-si-a chịu đóng đinh – hoàn toàn trái ngược với sự khôn ngoan của loài người (1:18-25), khi thấy cách Đức Chúa Trời chọn lựa người để thành lập một dân mới của Ngài (1:26-31). Dường như Phao-lô muốn nói với họ rằng: “Có phải anh em nghĩ rằng Phúc Âm là một loại khôn ngoan mới chăng? Làm sao có thể như thế được? Có người nào nhân danh sự khôn ngoan mà lại chọn anh em làm một dân mới cho Đức Chúa Trời?” Chính việc truyền giảng của Phao-lô cũng là một minh họa cho mâu thuẫn đó (2:1-5). Trong 1:6-16, Phao-lô cho họ biết rằng đó là sự khôn ngoan, nhưng là sự khôn ngoan do Thánh Linh của Đức Chúa Trời mặc khải cho những con dân mới của Ngài – tức là những người có Thánh Linh hiện diện. Phao-lô lập luận rằng vì người Cô-rinh-tô đã có Đức Thánh Linh rồi, cho nên họ đừng hành động như những kẻ không có Ngài (3:1-4). Việc họ tranh cãi vì cớ Phao-lô và A-bô-lô chứng minh họ vẫn còn hành động “như người xác thịt.

Vậy, ba phân đoạn kế tiếp đóng chức năng gì trong lập luận? Với 3:5-9, nội dung đề cập tính chất và vai trò của hai vị lãnh đạo mà vì đó họ tranh cãi với nhau. Phao-lô nhấn mạnh rằng hai ông chỉ là tôi tớ, chứ không phải là chủ, là Chúa, như khẩu hiệu của họ. Trong các câu 6-9, bằng hình ảnh một nông gia, ông nêu lên hai đặc điểm của tôi tớ, cả hai đều vô cùng quan trọng đối với sự hiểu lầm của người Cô-rinh-tô: (1) Cả Phao-lô lẫn A-bô-lô đều vì lợi ích chung, tuy nhiệm vụ của mỗi người có khác nhau, và mỗi người rồi sẽ được lãnh “phần thưởng” riêng. (2) Mọi sự và mọi người – Hội Thánh, tôi tớ, sự tăng trưởng – đều thuộc về Đức Chúa Trời.

Sự hiểu biết về hai điểm này rất quan trọng. Nó gây ra chia rẽ trong Hội Thánh vì cớ các lãnh đạo của mình, tuy rằng những người này không phải là chủ, là chúa. Họ chỉ là các tôi tớ, dù có chức vụ khác nhau, đều vì lợi ích chung. Họ thuộc về Đức Chúa Trời như tín hữu Cô-rinh-tô thuộc về Đức Chúa Trời.

Một đoạn văn khác cũng thường bị giải thích sai là 3:10-15 do không tìm hiểu theo từng phân đoạn. Cần lưu ý hai điều: (1) Ở cuối câu 9, Phao-lô đã đổi ẩn dụ nông nghiệp sang kiến trúc, sẽ là ẩn dụ được dùng cho cả phân đoạn này. (2) Đặc điểm trong cả hai ẩn dụ chỉ là một (Phao-lô trồng, đặt nền; A-bô-lô tưới, xây trên nền ấy; Hội Thánh Cô-rinh-tô là ruộng, ngôi nhà; Đức Chúa Trời là chủ ruộng, chủ ngôi nhà). Tuy nhiên, luận điểm của mỗi phân đoạn có khác nhau. Luận điểm của 3:10-15 được diễn tả rõ ràng trong câu 10, “nhưng ai nấy phải cẩn thận về sự mình xây trên nền đó.” Ví dụ của Phao-lô cho biết thêm rằng kết quả sau cùng sẽ cho thấy người thợ xây giỏi hay tồi. Cần lưu ý điều được xây dựng là Hội Thánh, hoàn toàn không có một ám chỉ nào cho thấy Phao-lô muốn nói đến việc mỗi cá nhân tín hữu xây dựng cuộc sống mình trên Đấng Christ, vì điều này sẽ không thích hợp cho phần lập luận ở đây. Phao-lô cũng muốn cảnh cáo những người đang lãnh đạo Hội Thánh rằng họ phải làm công việc ấy cách cẩn trọng, vì ngày thử nghiệm đã sắp đến rồi. Xây dựng Hội Thánh bằng sự khôn ngoan hoặc tài hùng biện của loài người nhằm xuyên tạc thập tự giá, là xây dựng bằng gỗ, cỏ khô, và rơm rạ.

Đoạn văn tiếp theo 3:16-17 cũng thường bị ứng dụng sai, một phần vì sau đó ít lâu (6:19) ai cũng biết rằng Phao-lô đã gọi thân thể của Cơ Đốc nhân là “đền thờ của Đức Thánh Linh.” Như thế mấy câu ở đây cũng thường bị cá nhân hóa nhằm ám chỉ một người lạm dụng thân thể hay lơ là đời sống thuộc linh. Tuy nhiên, ở nhiều chỗ khác, Phao-lô dùng ẩn dụ đền thờ trong nghĩa tập thể để ám chỉ Hội Thánh là đền thờ của Đức Chúa Trời (IICor 6:16; Eph 2:19-22). Đây là điều ông muốn nói, mà bản NIV đã cố làm sáng tỏ bằng cách dịch “chính anh em là đền thờ của Đức Chúa Trời.”

Vậy thì luận điểm của Phao-lô trong văn mạch này là gì? Hội Thánh Cô-rinh-tô phải là đền thờ của Đức Chúa Trời tại Cô-rinh-tô – tương phản với tất cả các đền miếu khác trong thành phố ấy. Nói cách khác, họ được Đức Chúa Trời lựa chọn để sống một lối sống khác với nếp sống của người Cô-rinh-tô. Điều khiến họ trở thành đền thờ của Đức Chúa Trời là sự hiện diện của Ngài giữa vòng họ. Nhưng do việc kết bè lập đảng, họ đang phá hủy đền thờ của Đức Chúa Trời. Phao-lô bảo rằng ai gây ra sự chia rẽ thì chính họ sẽ bị Đức Chúa Trời hủy phá, vì Hội Thánh Cô-rinh-tô quý giá đối với Ngài.

Luận cứ được linh cảm của Phao-lô giờ đây đã đầy đủ. Bắt đầu, ông đã vạch ra sự hiểu biết thiếu sót của họ về Phúc Âm, một Phúc Âm không chỉ dựa trên sự khôn ngoan của loài người, nhưng còn trái ngược trên mọi phương diện. Sau đó ông cho thấy sự hiểu biết thiếu sót của họ về quyền lãnh đạo trong Hội Thánh; đồng thời cảnh cáo các cấp lãnh đạo thuộc cả hai phe và chính hội chúng rằng Đức Chúa Trời sẽ đoán phạt những ai gây chia rẽ. Trong ICo1Cr 3:18-23, ông nhập chung cả hai luận đề này lại trong một câu kết luận. Sự khôn ngoan của loài người là dại dột; do đó “chớ ai khoe mình về loài người.”

Trong khi tóm tắt lại phần phân tích này chúng ta cần lưu ý: (1) Công tác giải kinh là giải nghĩa chính nội dung bản văn; nghĩa là chúng ta không cần phải vượt ra ngoài bản văn mới hiểu được luận điểm của nó, (2) chẳng có điều gì trong bản văn lại không phù hợp với lập luận, và (3) tất cả mọi điều đó làm cho sáng tỏ ý nghĩa. Đây là công tác giải kinh. Đây là Lời của Đức Chúa Trời cho họ. Có thể bạn cần tham khảo sách giải nghĩa để rõ thêm một số điểm trong nội dung. Tuy nhiên bạn có khả năng làm tất cả những gì chúng ta vừa làm. Điều quan trọng là bạn cần thực tập – trong một vài trường hợp sẽ đòi hỏi bạn phải chịu khó suy nghĩ nữa; nhưng bạn có thể thực hiện được, và phần thưởng sẽ rất xứng đáng.

Thực Tập Một Lần Nữa

Trước khi kết thúc chương này, chúng ta sẽ thực tập công tác giải kinh bằng một phân đoạn Kinh Thánh khác dễ hơn I Cô-rinh-tô, nhưng cũng đề cập đến sự chia rẽ trong Hội Thánh.

Hãy đọc Philip 1:27-2:13 nhiều lần. Cần lưu ý rằng lập luận của Phao-lô ở đây diễn biến đại thể như sau: Cơ hội là Phao-lô đang bị tù (1:13,17) và Hội Thánh Phi-líp gửi cho ông một món quà qua một thành viên tên Ép-ba-phô-đích (4:14-18). Dường như Ép-ba-phô-đích lâm bịnh, và Hội Thánh nghe được tin ấy nên lấy làm buồn rầu (2:26;) nhưng Đức Chúa Trời đã chữa lành cho ông, nên Phao-lô đang phái ông quay về với họ (2:25-30) mang theo một bức thư với mục đích (1) cho họ biết mọi việc đã xảy ra với ông (1:12-26), (2) cám ơn họ về món quà của họ (4:10,14-19), và (3) khuyến giục họ hai điều: sống hòa thuận với nhau (1:27-2:17; 4:2-3) và tránh tà giáo Do Thái (3:1-4:1).

Phao-lô vừa kết thúc phần ông kể cho họ cách sống của ông trong tù. Phần kế tiếp là một phần của lời khuyến giục. Thí dụ, hãy lưu ý cách ông không còn tự nói về mình nữa như trong các câu 12-16. Bạn có thấy sự thay đổi rõ ràng từ tôi/của tôi, sang anh em/của anh em trong câu 27 không?

Thế thì, đâu là luận điểm của từng phân đoạn trong đoạn sách này?

Phân đoạn thứ nhất, 1:27-30, bắt đầu lời khuyến giục. Luận điểm dường như là điều chúng ta đọc thấy trong câu 27, họ phải “đứng vững trong một Thánh Linh.” Đây là lời khuyên hiệp một, nhất là vì họ đang gặp chống đối. (Chú ý: nếu chúng ta quyết định rằng c.27 thật là luận điểm của phân đoạn, thì chúng ta phải đặt câu hỏi: “Đâu là luận điểm của câu 28-30 và việc nhấn mạnh đến sự chống đối và khổ nạn?” Lưu ý cách ông đã trả lời vấn đề này.)

2:1-4 liên quan đến sự hiệp một như thế nào? Trước hết, ông lặp lại lời khuyên (c.1-2, bây giờ chúng ta biết chắc rằng mình đúng ở phân đoạn thứ nhất). Nhưng luận điểm ở đây lại là khiêm nhường, là thái độ phải lẽ để các tín hữu hiệp nhất.

Bây giờ, bạn hãy thử tìm hiểu phân đoạn 2:5-11. Luận điểm là gì? Tại sao phần nầy đề cập đến việc Đấng Christ tự hạ mình xuống rồi được tôn cao? Câu trả lời của bạn có thể không đúng từng chữ từng lời với câu trả lời của chúng tôi, nhưng chắc chắn phải đại ý như sau: Sự nhập thể và chịu chết của Chúa Giê-xu là tấm gương cao nhất về sự khiêm nhường mà Phao-lô muốn họ phải có. (Bạn cần lưu ý rằng khi đặt câu hỏi theo cách này thì luận điểm của phân đoạn sẽ không nhằm dạy dỗ chúng ta một điều gì mới mẻ về Chúa Cứu Thế cả. Phao-lô đề cập đến các chân lý trọng đại về Đấng Christ nhằm khích lệ tín hữu Phi-líp bắt chước để trở nên giống Đấng Christ, chứ không phải chỉ để biết về Ngài mà thôi.)

Hãy tiếp tục với 2:12-13. Luận điểm ở đây là gì? Rõ ràng đây là phần kết luận. Lưu ý chữ ấy vậy. Một khi đã được nhắc nhở về tấm gương của Đấng Christ, giờ đây họ phải vâng lời Phao-lô về việc gì? Chắc chắn là việc hiệp nhất, mà điều này đòi hỏi phải có thái độ khiêm nhu nữa. Cuối cùng, bạn cần chú ý cách Phao-lô giải quyết vấn đề thiếu hiệp một, rằng vấn đề cũng tương tự như tại Cô-rinh-tô, nhưng chắc còn có phần nghiêm trọng và phức tạp hơn thế nữa. Điều đó sẽ giúp bạn càng nhiều hơn để xác định cách bạn tái tạo vấn đề tại đó.
Các Phân Đoạn Khó Giải Thích

Chúng tôi chủ ý đưa bạn qua hai khúc sách với mục đích cho bạn thấy rằng bạn có thể tự mình thực hiện phần giải kinh, miễn là bạn học cách suy nghĩ từng phân đoạn và đặt đúng các câu hỏi về bối cảnh lịch sử và văn mạch. Nhưng chúng tôi biết còn nhiều phân đoạn Kinh Thánh khác mà chúng ta vẫn luôn luôn có thắc mắc – như ý nghĩa của câu “vì cớ các thiên sứ” trong ICor 11:10, hay “chịu phép báp-tem cho kẻ chết” trong ICor 15:29, hay “Đấng Christ…đi giảng cho các linh hồn bị tù” trong IPhiero 3:19, hoặc “người tội ác” trong IITesalonica 2:3. Tóm lại, chúng ta phải đi đâu để tìm cho ra ý nghĩa của các khúc sách này?

Sau đây là một số hướng dẫn.

1. Trong nhiều trường hợp, lý do khiến các bản văn trở thành khó hiểu đối với chúng ta là vì chúng vốn không được viết cho chúng ta. Tác giả và độc giả đầu tiên có cùng một cách suy nghĩ, điều đó cho phép tác giả được linh cảm đoán biết nhiều điều về phía độc giả của mình. Chẳng hạn như lúc Phao-lô nói với người Tê-sa-lô-ni-ca rằng họ sẽ nhớ lại là ông “đã thường nói với họ về những điều đó,” do đó “anh em biết rõ điều làm ngăn trở nó” (IITe 2Tx 2:5, 6), thì chúng ta cần học biết hài lòng với sự thiếu hiểu biết của mình. Điều ông đã nói với họ bằng miệng bây giờ có thể ăn khớp với những gì ông viết cho họ trong bức thư. Việc chúng ta bị thiếu phần trao đổi bằng miệng của ông khiến cho phần ông viết ra trở thành khó hiểu. Nhưng chúng ta cần xem đó như là chuyện đương nhiên: hễ Đức Chúa Trời muốn cho chúng ta hiểu điều gì thì Ngài đã truyền thông cho chúng ta rồi; còn điều Ngài không nói có lẽ vẫn khiến cho chúng ta quan tâm, nhưng chúng ta nên dè dặt về các điểm không biết chắc đó để khỏi trở thành độc đoán.

2. Tuy nhiên như chúng tôi từng gợi ý, ngay cả khi chúng ta không biết đầy đủ về một số chi tiết, thì luận điểm của cả khúc sách vẫn thường nằm trong tầm lãnh hội của chúng ta. Cho dù người Cô-rinh-tô có làm gì trong việc “báp-tem cho người chết” đi nữa, chúng ta vẫn biết tại sao ông lại đề cập tập quán đó của họ. Hành động đó là một thứ “kinh nghiệm bản thân” cho thấy họ đã bất nhất khi chối bỏ sự sống lại trong tương lai của tín hữu.

3. Mặc dầu có những đều mơ hồ so với một số chi tiết chính xác, ta cần tìm hiểu điều gì là chắc chắn trong một đoạn văn, và điều gì có khả năng xảy ra nhưng không chắc chắn. Hãy xem lại ICor 15:29 như một thí dụ. Điều gì được quả quyết? Một số người Cô-rinh-tô quả thật có “làm phép báp-tem cho người chết” cho dù chúng ta có thích thừa nhận điều đó hay không. Hơn nữa, Phao-lô không buộc tội cũng chẳng đồng tình với việc làm đó của họ; ông chỉ nói về nó – vì một lý do khác hẳn với chính việc thực hành nghi thức đó. Nhưng chúng ta không biết và có lẽ là sẽ chẳng bao giờ biết được ai đã làm như thế, họ làm vì ai, và tại sao họ lại làm việc đó. Vì vậy, có lẽ chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết được các chi tiết và ý nghĩa của tập quán đó.

4. Gặp những phân đoạn như vậy, ta cần tra cứu sách giải nghĩa tốt. Như chúng tôi sẽ nêu rõ trong phần phụ lục, chính việc giải quyết một khúc sách như thế giúp ta biết được các bộ giải kinh tốt. Các bộ sách tốt sẽ liệt kê và ít ra cũng sẽ thảo luận vắn tắt các giải thích khác nhau với đủ các lý lẽ bênh vực hoặc bác bỏ. Có lẽ bạn không luôn luôn đồng ý với cách giải thích của cá nhân các nhà giải kinh, nhưng bạn cần biết các cách giải thích khác nhau, và các bộ sách giải nghĩa tốt sẽ làm công việc ấy giúp bạn.

Cuối cùng, chúng tôi xin gợi ý rằng ngay đến các học giả cũng không có hết tất cả các câu trả lời. Nếu một phân đoạn nào đó có từ bốn đến mười bốn ý nghĩa có thể chọn, thì cả đến các học giả cũng chỉ phỏng đoán mà thôi! Những bản văn như ICor 15:29 (đã có ít nhất bốn mươi cách phỏng đoán khác nhau) sẽ giúp chúng ta có thái độ khiêm nhu phải lẽ.

Tuy nhiên, việc chúng ta đã làm trong chương này chỉ mới là phân nửa nhiệm vụ phải làm. Phân nửa đầu này rất quan trọng, tuy nhiên bây giờ chúng ta cần tiếp tục đặt câu hỏi để tìm cách ứng dụng đoạn Kinh Thánh cho chúng ta. Chúng ta đã học nghe Lời Đức Chúa Trời phán với họ. Thế Lời Ngài phán gì với chúng ta? Đây là điều chúng ta sẽ làm trong chương tiếp theo.

Các Thư Tín: Những Vấn Đề Giảng Kinh

Bây giờ, chúng ta sẽ nghiên cứu điều đã đề cập: vấn đề giảng kinh (hermeneutics). Đoạn văn này có ý nghĩa gì cho chúng ta? Đây là trọng tâm, và so với công việc này thì giải kinh (exegesis) còn tương đối dễ dàng. Ít nhất là trong việc giải kinh, phần đông mọi người đều nhất trí với nhau ý nghĩa chung, ngay cả khi có bất đồng ý kiến ở một số điểm cá biệt. Bối cảnh lịch sử và văn mạch không cho phép giải nghĩa tùy tiện. Chẳng hạn Phao-lô không thể ám chỉ điều gì đó mà độc giả của ông chưa từng nghe; điều ông muốn nói ít nhất cũng nằm trong phạm vi những điều có thể xảy ra hồi thế kỷ thứ nhất.

Tuy nhiên, dường như không có sự nhất trí như thế trong giảng kinh (học biết ý nghĩa trong bối cảnh của thời đại chúng ta). Mọi người đều “làm” công tác giảng kinh, ngay cả khi họ chẳng biết chút gì về giải kinh cả. Cho nên chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi có nhiều điểm khác nhau giữa vòng các Cơ Đốc nhân; điều lạ lùng hơn là những điểm thật sự khác nhau không có nhiều. Lý do là vì thật ra chúng ta có chung một căn bản giảng kinh, cả khi chúng ta không nói rõ ra.

Trước hết, điều chúng tôi muốn làm trong chương này là phác họa loại giảng kinh thông thường của phần đông tín hữu, chỉ ra các ưu và khuyết điểm của nó, rồi thảo luận và đưa ra một số hướng dẫn cho nhiều lãnh vực mà loại giảng kinh này còn thiếu xót. Nan đề của các Cơ Đốc nhân dấn thân nghiên cứu Kinh Thánh như là Lời của Đức Chúa Trời liên quan đến tính tương đối của văn hóa, điều gì có tính cách văn hóa chỉ thuộc thế kỷ thứ nhất, còn điều vượt trên văn hóa và do đó trở nên Lời cho mọi thời đại. Đây là điều rất cần được chú ý.

Giảng Kinh Theo Nhận Thức Thông Thường Của Chúng Ta

Ngay cả khi bạn thắc mắc “Herman là ai?” khi gặp từ “hermeneutics” (giảng kinh) thì thực sự bạn đang dính líu với công tác giảng kinh. Chúng ta làm gì khi đọc các thư tín? Rất đơn giản, chúng ta sử dụng nhận thức thông thường của chúng ta để hiểu đoạn kinh văn mình đọc, rồi ứng dụng điều mình có thể ứng dụng vào hoàn cảnh của riêng mình. Những gì có vẻ không thể đem ra ứng dụng, đơn giản là nên chừa lại cho thế kỷ thứ nhất.

Có lẽ chẳng có ai trong chúng ta nghĩ rằng mình được Thánh Linh kêu gọi hành hương đến Trô-ách để đem chiếc áo choàng của Phao-lô còn để tại nhà Cơ-rít-bu đến cho ông trong nhà tù tại Rô-ma (IITim 4:13), tuy khúc sách này rõ ràng là một mệnh lệnh dạy phải làm như thế. Thế nhưng, cũng từ một bức thư ấy, hầu hết các Cơ Đốc nhân đều tin rằng Đức Chúa Trời dạy họ hễ khi nào gặp khó khăn thì phải “chịu khổ như một người lính giỏi của Đức Chúa Giê-xu Christ” (2:3). Không ai trong chúng ta lại thắc mắc về những lời dạy này, tuy nhiều người trong chúng ta lắm khi phải chiến đấu để vui vẻ vâng theo lời dạy thứ hai.

Xin nhấn mạnh ở đây rằng phần lớn các vấn đề trong các thư tín đều rất phù hợp với cách giảng kinh theo tri thức thông thường. Với hầu hết các đoạn kinh văn, vấn đề không phải là ta có nên vâng theo hay không, nhưng là “nhắc nhở nhau để giục giã nhau” (IIPhi 2Pr 1:15, KJV).

Những vấn đề – và những điểm dị biệt – của chúng ta phát xuất từ những bản văn mà có người cho rằng phải vâng theo đúng những gì được nêu lên, còn những người khác lại không chắc phải làm đúng như thế. Có vài khó khăn trong sự giảng kinh của chúng ta, nhưng tất cả đều có liên quan với một điều – sự thiếu nhất quán của chúng ta. Đây là một khuyết điểm lớn khi chúng ta giảng kinh theo tri thức phổ thông. Tuy không hẳn là cố ý, chúng ta vẫn đưa di sản thần học, truyền thống giáo hội, các nề nếp văn hóa, hay những mối quan tâm hiện sinh của mình vào trong các Thư Tín khi đọc chúng. Và điều này đã dẫn tới hậu quả là đủ các loại giải thích về một số phân đoạn nào đó.

Chẳng hạn như điều lý thú là mọi người trong các hệ phái Tin Lành hoặc Bảo Thủ Mỹ đều nhất trí với lập trường chung của chúng ta liên hệ đến IITi 2Tm 2:3 và 4:13. Tuy nhiên, môi trường văn hóa của các Cơ Đốc nhân ấy lại khiến họ tranh luận để chống lại việc vâng theo ITim 5:23 “Đừng chỉ uống nước luôn, nhưng phải uống một ít rượu, vì cớ tì vị con, và con hay khó ở.” Chúng ta biết rằng điều đó chỉ có can hệ với Ti-mô-thê, chứ không phải là với chúng ta, vì thời bấy giờ, uống nước lã là điều không an toàn. Hay nói cách khác, người ta thậm chí còn lý luận rằng thật ra rượu chỉ có nghĩa là “nước nho” – mặc dầu ta có thể ngạc nhiên làm thế nào để có loại nước ấy khi cách chế biến của Welch và đông lạnh chưa có! Nhưng tại sao lời khuyên cá nhân này chỉ bị giới hạn cho một mình Ti-mô-thê mà thôi, trong khi lời khuyến giục hãy tiếp tục ở trong Lời Đức Chúa Trời (IITim 3:14-16), vốn là một mệnh lệnh cho riêng Ti-mô-thê, lại trở thành mệnh lệnh đối với tất cả mọi người thuộc mọi thời đại? Hãy coi chừng, một người có thể đúng khi phớt lờ ITim 5:23 như thể không có ứng dụng cá nhân cho hiện nay, nhưng dựa trên nền tảng giảng kinh nào?

Hoặc vấn đề nhiều tín hữu truyền thống đã đả kích nhóm “dân của Chúa Giê-xu” (Jesus people) trong những năm cuối thập niên 1960 và đầu 1970 vừa qua. Thanh niên để tóc dài đã trở thành biểu tượng của một kỷ nguyên mới trong văn hóa híp-pi của những năm 1960. Với các Cơ Đốc nhân mang biểu tượng đó, nhất là dưới ánh sáng của ICor 11:14 (“Chính lẽ tự nhiên há chẳng dạy cho anh em biết đàn ông để tóc dài thì lấy làm hổ thẹn sao?”) chẳng khác gì là một thách thức công khai đối với Đức Chúa Trời. Thế nhưng phần đông số người trích dẫn câu Kinh Thánh ấy để chống lại văn hóa của những người trẻ lại cho phép phụ nữ Cơ Đốc cắt tóc ngắn (bất chấp câu 15), không nhấn mạnh việc các phụ nữ phải trùm đầu lại khi thờ phượng, và chẳng bao giờ lưu tâm rằng cái “tự nhiên” đó có bởi một phương tiện rất trái tự nhiên – là cắt tóc.

Hai thí dụ trên đây chỉ nhằm minh họa vấn đề văn hóa ảnh hưởng mạnh mẽ đến cái gọi là nhận thức thông thường (common sense) của bất cứ một ai trong chúng ta. Ngoài ra còn có những điều khác chi phối nhận thức thông thường như truyền thống giáo hội. Tại sao trong nhiều nhà thờ Tin Lành, phụ nữ bị cấm phát biểu giữa Hội Thánh căn cứ vào ICor 14:34-35, thế nhưng chính các nhà thờ ấy lại lý luận chống đối lại những điều khác trong chương 14 cho rằng đó không thuộc về thế kỷ thứ hai mươi? Tại sao các câu 34-35 thì thuộc về mọi thời đại, mọi nền văn hóa, trong khi mấy câu 1-5, hay 26-33 và 39-40 nêu lên các quy tắc cho việc nói tiên tri và nói tiếng lạ, lại chỉ thuộc về Hội Thánh hồi thế kỷ thứ nhất mà thôi?

Cần lưu ý thêm rằng các Cơ Đốc nhân của thế kỷ thứ hai mươi rất dễ đọc thấy truyền thống của giáo hội mình trong I Ti-mô-thê và Tít. Thế nhưng rất ít Hội Thánh có một chức vụ lãnh đạo đa diện như được nêu ở đây (ITim 5:17; Tit 1:5; Ti-mô-thê không phải là một mục sư; ông chỉ là phái viên tạm thời của Phao-lô sai đến để sắp xếp mọi việc cho có trật tự và sửa sai các lạm dụng mà thôi). Và lại càng ít Hội Thánh thật sự “ghi tên các goá phụ vào sổ” theo các hướng dẫn của ITim 5:3-15.

Bạn có thấy rằng kiến thức thần học của chúng ta chi phối sự hiểu về đoạn kinh văn mà chúng ta đọc, trong khi ta lại né tránh một số đoạn khác hay không? Một số Cơ Đốc nhân rất ngạc nhiên khi nhận thấy rằng nhiều Cơ Đốc nhân trưng dẫn Kinh Thánh hậu thuẫn cho việc báp-tem trẻ con ICor 1:16; 7:14; 2:11-12 hay với nhiều người khác thì sự tái lâm gồm hai giai đoạn trong IITesalonica 2:1, hay càng nhiều người hơn nữa đã tìm thấy chứng cứ hiển nhiên cho sự thánh hóa như là một công tác thứ hai của ân điển trong Tit 3:5. Với nhiều người theo truyền thống của Arminius, là người nhấn mạnh trên ý chí tự do và trách nhiệm của người tín hữu, thì các đoạn văn như RoRm 8:30; 9:18-24; Gal 1:15; Eph 1:4-5 là điều khó hiểu. Cũng thế, nhiều tín đồ theo chủ trương của Calvin có cách hiểu riêng ICor 10:1-13 IIPhiero 2:20-22; Heboro 6:4-6. Theo kinh nghiệm giảng dạy của chúng tôi, sinh viên theo các truyền thống đó rất ít khi thắc mắc ý nghĩa của các đoạn kinh văn ấy; họ chỉ muốn biết “phải trả lời như thế nào” cho các phần Kinh Thánh đó mà thôi!

Có lẽ một số người không đồng ý với chúng tôi trong mấy phân đoạn vừa rồi, nhưng chúng tôi tìm cách chứng minh cho thấy vấn đề vô cùng quan trọng, và Cơ Đốc nhân cần phải hội thảo với nhau ở điểm cốt yếu nầy. Thế thì, đâu là các nguyên tắc hướng dẫn cần thiết để việc giảng kinh các Thư tín được nhất quán hơn?

Quy Luật Căn Bản

Chắc bạn nhớ rằng trong chương 1, chúng tôi đã đưa ra một tiền đề làm quy luật cơ bản, đó là một đoạn kinh văn không thể ngụ ý nói điều mà nó chẳng hề ngụ ý muốn nói với tác giả hoặc độc giả đầu tiên. Chính vì lý do ấy mà giải kinh phải luôn luôn đi trước. Chúng tôi nhắc lại tiền đề đó ở đây vì nó rất quan trọng và ít ra điều này cũng định một số giới hạn nào đó cho việc giải nghĩa. Quy luật này không luôn luôn giúp ta tìm ra ý nghĩa của đoạn kinh văn, nhưng giúp ta giới hạn điều mà nó không thể ngụ ý.

Chẳng hạn, cách biện minh thông thường nhất cho việc bỏ qua các quyết định liên quan đến việc tìm cầu các ân tứ thuộc linh trong ICor 14:1-40 là dùng cách giải nghĩa cá biệt ICo1Cr 13:10, “lúc sự trọn lành đã đến, thì sự chưa trọn lành sẽ bị bỏ” (RSV). Chúng ta được bảo rằng sự trọn lành đã đến trong hình thức của bộ Tân Ước, do đó sự chưa trọn lành (lời tiên tri và tiếng lạ) đã chấm dứt trong Hội Thánh. Nhưng đây chính là điều mà câu Kinh Thánh không hề ngụ ý vì phương pháp giải kinh đúng hoàn toàn không cho phép. Phao-lô không thể nào muốn nói như thế được – vì dù sao, các độc giả của ông không thể biết được bộ Tân Ước sẽ như thế nào, và Đức Thánh Linh không thể cho phép Phao-lô viết một điều mà họ hoàn toàn không thể hiểu.

Quy Luật Thứ Hai

Quy luật cơ bản thứ hai thật ra là một cách diễn tả khác việc giảng kinh theo nhận thức thông thường của chúng ta. Qui luật này là, Hễ khi nào chúng ta có những điểm cá biệt tương tự (nghĩa là các hoàn cảnh sống cụ thể giống nhau) với bối cảnh hồi thế kỷ thứ nhất, thì Lời của Đức Chúa Trời đối với chúng ta cũng có ý nghĩa giống hệt như Lời Ngài cho họ. Chính quy luật này làm cho phần lớn các đoạn kinh văn mang ý nghĩa thần học và các mệnh lệnh đạo đức cộng đồng trong các Thư tín có ý nghĩa đối với Cơ Đốc nhân hiện đại, làm cho chúng ta thấy mình gần gũi với thế kỷ thứ nhất. Điều vẫn còn nghiệm đúng là “mọi người đều đã phạm tội” và “ấy là nhờ ân điển bởi đức tin mà chúng ta được cứu.” Hãy mặc lấy “sự nhân từ, khiêm nhượng, mềm mại, nhịn nhục” (Col 3:12) vẫn là Lời của Đức Chúa Trời cho những ai là tín hữu.

Hai phân đoạn dài hơn mà chúng ta đã giải nghĩa trong chương trước dường như thuộc loại này. Một khi chúng ta đã giải nghĩa và khám phá điều Lời Đức Chúa Trời đã phán dạy họ, thì chúng ta tức khắc tự đặt mình dưới cùng một Lời ấy của Chúa. Chúng ta vẫn có các chi hội địa phương, vẫn có các cấp lãnh đạo cần nghe Lời Chúa và cẩn thận trong cách họ xây dựng Hội Thánh. Dường như Hội Thánh thường bị xây cất bằng gỗ, cỏ khô, rơm rạ, chứ không phải là bằng vàng, bạc, bửu thạch, mà một công tác như thế khi bị thử nghiệm bằng lửa chỉ là phí công vô ích. Chúng ta lý luận rằng ICor 3:16-17 vẫn là Lời Đức Chúa Trời phán cho chúng ta để dạy rằng đó là trách nhiệm của chúng ta đối với chi hội địa phương. Đó phải là một nơi mà Thánh Linh của Đức Chúa Trời ngự trị, do đó sẽ đứng vững như là nơi Đức Chúa Trời đã chọn để thay cho xã hội tội lỗi và xa cách Đức chúa Trời.

Điều cần thận trọng là chúng ta phải giải kinh đúng để chúng ta tin tưởng rằng hoàn cảnh và trường hợp cá biệt của chúng ta có thể so sánh với của họ. Chính vì thế mà việc tái dựng thật cẩn thận nan đề của họ là việc rất quan trọng. Thí dụ, khi giảng kinh chúng ta cần biết việc kiện tụng trong ICor 6:1-11 là trường hợp giữa hai Cơ Đốc nhân trước một thẩm phán ngoại đạo tại nơi họp chợ công khai ở Cô-rinh-tô. Chúng ta có thể lý luận rằng luận điểm của đoạn kinh văn vẫn chẳng có gì thay đổi nếu tình cờ vị thẩm phán là một Cơ Đốc nhân, hoặc được xét xử tại một toà án. Chỗ sai là vì hai anh em ấy lại đi kiện nhau ngoài Hội Thánh, như các câu 6-11 đã nêu rõ. Mặt khác, một người có thể thắc mắc chẳng hay điều đó có áp dụng cho việc một Cơ Đốc nhân kiện một công ty tại Hoa Kỳ hiện nay hay không, vì trường hợp này không phải tất cả những chi tiết cá biệt đều giống nhau – mặc dầu người đó phải lưu ý lời dạy của Phao-lô về vấn đề đạo đức không nên ăn miếng trả miếng mà Chúa Giê-xu đòi hỏi (c. 7).

Tất cả những gì đã được nói đến dường như đều khá dễ dàng. Nhưng vấn đề thế nào một bản văn như ICor 6:1-11 có thể ứng dụng “vượt ra ngoài” các trường hợp cá biệt của nó chỉ mới là một trong số nhiều loại vấn đề cần được thảo luận. Phần còn lại của chương này sẽ dành cho bốn vấn đề như thế.

Vấn Đề Áp Dụng Mở Rộng

Chúng ta vừa đề cập vấn đề đầu tiên. Khi có những trường hợp cá biệt và những hoàn cảnh giống như thế trong Hội Thánh ngày nay, thì mở rộng cách ứng dụng đoạn kinh văn ấy cho nhiều bối cảnh khác, hoặc đem nó ứng dụng vào một bối cảnh hoàn toàn xa lạ với bối cảnh của thế kỷ thứ nhất có phải là điều hợp lý không?

Thí dụ người ta có thể lý luận rằng ICor 3:16-17 được viết cho Hội Thánh địa phương, trình bày nguyên tắc rằng điều gì Đức Chúa Trời đã biệt riêng cho Ngài bằng sự hiện diện của Thánh Linh sẽ trở nên thánh khiết và hễ ai phá hủy nó phải chịu sự đoán phạt đáng sợ của Đức Chúa Trời. Nguyên tắc này bây giờ có thể áp dụng cho cá nhân Cơ Đốc nhân để dạy rằng Đức Chúa Trời sẽ phán xét người nào lạm dụng thân thể của mình không? Cũng thế, ICor 3:10-15 được viết cho những người có trách nhiệm xây dựng trong Hội Thánh, và cảnh cáo rằng họ sẽ bị thua thiệt nếu xây dựng tồi. Vì đoạn Kinh Thánh đề cập sự phán xét và sự cứu rỗi (được cứu dường như qua lửa), vậy nếu dùng khúc Kinh Thánh này để minh họa cho sự an toàn của người tín hữu thì có hợp lý không?

Nếu cho những cách áp dụng này là hợp lý, thì chúng ta có lý do chính đáng để quan tâm. Vì nó cho thấy cách ứng dụng như thế hoàn toàn chểnh mảng khi giải kinh. Dù sao thì ứng dụng ICor 3:16-17 cho cá nhân người tín hữu là điều sai lầm mà nhiều người trong Hội Thánh đã làm qua nhiều thế kỷ. Nếu vậy thì cần gì phải giải kinh? Tại sao không đơn giản bắt đầu với cái ngay bây giờ và tại đây để rơi vào sai lầm của nhiều thế kỷ qua?

Do đó, chúng ta phải lý luận rằng khi có những hoàn cảnh và trường hợp cá biệt tương tự, thì ý định nguyên thủy của Lời của Đức Chúa Trời sẽ kiểm soát sự áp dụng của chúng ta. Hơn nữa, cần lưu ý rằng việc mở rộng cách ứng dụng thường được xem là hợp lý vì nó đúng, nghĩa là nó được nói ra thật rõ ràng trong nhiều khúc sách khác cho thấy đó là ý định của khúc sách ấy. Trong trường hợp như thế, thì ta nên tự hỏi xem điều mình đã học được chỉ bằng cách ứng dụng mở rộng có thật đúng là Lời của Đức Chúa Trời hay không.

Một trường hợp còn khó khăn hơn nữa trong IICo 2Cr 6:14: “Chớ mang ách chung với kẻ chẳng tin.” Theo truyền thống thì câu Kinh Thánh này bị giải nghĩa sai là cấm việc kết hôn giữa một Cơ Đốc nhân với người không tin Chúa. Tuy nhiên, hình ảnh chiếc ách rất ít khi được thời cổ đại dùng để ám chỉ hôn nhân, và văn mạch cũng không cho phép áp dụng câu Kinh Thánh này vào hôn nhân.

Điểm khó khăn là chúng ta không biết rõ nguyên bản muốn cấm điều gì. Dường như câu Kinh Thánh này ám chỉ việc thờ thần tượng, có lẽ là một cách cấm đoán tham dự các đám tiệc liên hệ với việc thờ thần tượng (so sánh ICor 10:14-22). Như thế, vì chúng ta không thể biết chắc ý nghĩa nguyên thủy của câu Kinh Thánh nên chúng ta không thể “mở rộng” việc áp dụng lời dạy này sao? Có thể là được, nhưng nên nhớ rằng một lời dạy của Kinh Thánh có thể được hỗ trợ mà không cần đến câu Kinh Thánh đơn độc này.

Vấn Đề Các Trường Hợp Cá Biệt Không Thể So Sánh

Vấn đề ở đây liên quan với hai loại kinh văn trong các Thư tín: các đoạn văn đề cập những vấn đề của thế kỷ thứ nhất mà phần lớn đều không có trường hợp tương ứng nào trong thế kỷ hai mươi, và những đoạn văn đề cập các vấn đề cũng có thể xảy ra trong thế kỷ hai mươi, nhưng rất khó xảy ra. Với những phần Kinh Thánh như thế, chúng ta phải làm gì và học được gì?

Về loại thứ nhất, chúng ta lấy thí dụ trong ICor 8:1-10:33, chỗ Phao-lô nêu lên ba vấn đề: (1) Các Cơ Đốc nhân lý luận rằng họ được đặc quyền tham gia các bữa tiệc cúng thần tượng của những người láng giềng ngoại đạo của họ (xem 8:10; 10:14-22), (2) người Cô-rinh-tô thắc mắc uy quyền sứ đồ của Phao-lô (xem 9:1-23), (3) thức ăn cúng cho các thần tượng, rồi được đem ra bán ngoài chợ (10:23-11:1).

Những phân đoạn này khi được giải thích dúng đắn chúng ta sẽ thấy Phao-lô trả lời cho các vấn đề này như sau: (1) Họ tuyệt đối không được tham dự các lễ tiệc cúng tế thần tượng vì nguyên tắc gây cớ vấp phạm (8:7-13), vì việc ăn uống như thế không phù hợp với đời sống trong Chúa Cứu Thế, tức đời sống đã dự phần trong bàn Tiệc Thánh (10:16-17), và vì ăn uống như thế có nghĩa là dự phần vào công việc của ma quỉ (10:19-22). (2) Phao-lô bênh vực cho quyền được trợ cấp tài chánh với tư cách một sứ đồ, dầu rằng ông đã từ bỏ cái quyền ấy; ông cũng bênh vực cho các hành động có vẻ thờ ơ của ông (9:19-23). (3) Có thể mua và ăn các thức ăn đã cúng cho thần tượng được đem bán ngoài chợ, và cũng có thể tự do ăn nó tại nhà người khác nữa. Trong trường hợp sau, ta có thể từ chối nếu việc ấy làm cho người khác vấp phạm. Ta có thể ăn bất cứ vật gì vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, nhưng đừng nên làm việc gì cố ý gây vấp phạm.

Vấn đề chúng ta quan tâm là trong văn hóa phương Tây không có tập tục thờ cúng thần tượng, nên (1) và (3) không được đặt ra. Hơn nữa, chúng ta chẳng còn các vị sứ đồ theo nghĩa Phao-lô, tức là những người thật sự được gặp Chúa Cứu Thế Phục Sinh (9:1; đối chiếu 15:8), đã thành lập và có uy quyền trên các Hội Thánh mới (9:1-2; đối chiếu IICor 10:16).

Loại kinh văn thứ hai có thể được lấy thí dụ trong ICor 5:1-11 nói về kẻ loạn luân, hoặc ICor 11:17-22 nói về những kẻ say sưa tại bàn Tiệc Thánh, hoặc trong Gal 5:2 nói về những kẻ muốn ép buộc những Cơ Đốc nhân chưa chịu phép cắt bì phải chịu phép cắt bì. Những việc này gần như không xảy ra trong văn hóa của chúng ta, tuy có thể có.

Câu hỏi cần được trả lời những vấn đề không có trong thế kỷ hai mươi có ý nghĩa gì đối với các Cơ Đốc nhân ở thế kỷ thứ hai mươi? Chúng tôi đề nghị cách giảng kinh thích hợp ở đây nên theo hai bước:

Trước hết, chúng ta phải thực hiện việc giải kinh cách hết sức cẩn trọng để có thể nghe được điều Chúa muốn phán dạy họ lúc đó thật có ý nghĩa gì. Trong hầu hết các trường hợp, một nguyên tắc rõ ràng được nêu ra thường vượt trên nét cá biệt lịch sử của thời điểm nó được áp dụng.

Thứ hai, cũng là điểm quan trọng, nguyên tắc ấy đã không trở thành phi thời gian để giờ đây, nó có thể được áp dụng bừa bãi hoặc đối với bất kỳ hoàn cảnh nào hay trong mọi loại hoàn cảnh. Chúng tôi muốn nói rằng nó chỉ được áp dụng cho những hoàn cảnh thật sự giống như thế.

Để minh họa cho cả hai điểm này, trước hết, Phao-lô cấm tham dự các bữa ăn trong đền miếu dựa trên nguyên tắc gây vấp phạm. Nhưng cần lưu ý là điều này không nói đến một điều gì đó chỉ gây vấp phạm cho một tín hữu khác. Nguyên tắc gây vấp phạm nói đến một điều gì mà một tín hữu cảm thấy mình có thể làm với lương tâm tốt, và bởi hành động hoặc bởi thuyết phục, người ấy dẫn dụ một tín hữu khác cùng làm nhưng lương tâm cắn rứt. Cuối cùng người anh em hay chị em bị “sa ngã” vì bắt chước hành động của người kia; người anh chị em ấy không chỉ bị xúc phạm bởi việc làm ấy. Do đó, nguyên tắc này dường như chỉ áp dụng khi có những hoàn cảnh thật sự giống hệt mà thôi.

Thứ hai, cuối cùng Phao-lô tuyệt đối cấm việc tham dự các bữa ăn trong đền miếu, vì điều đó có nghĩa là dự phần vào công việc của ma quỷ. Các Cơ Đốc nhân thường lầm lẫn không rõ hoạt động của ma quỷ gồm có những gì. Tuy nhiên điều này dường như là một cấm đoán chuẩn mực của Cơ Đốc nhân đối với mọi hình thức cầu vong, phù phép, chiêm tinh, vv…

Hơn nữa, chúng ta không có các sứ đồ, và đa số các tín đồ Tin Lành không nghĩ rằng vị mục sư của họ thừa kế truyền thống các sứ đồ. Nhưng nguyên tắc “ai rao giảng Tin Lành thì được nuôi mình bởi Tin Lành” (ICor 9:14) dường như chắc chắn có thể đem ra áp dụng cho mục vụ đương đại vì nó được những chỗ khác trong Kinh Thánh chứng thực (thí dụ ITim 5:17-18).

Vấn đề ăn thịt đã cúng tế thần tượng bán ngoài chợ (ICor 10:23-11:1) nêu lên một nan đề trong việc giảng kinh. Thức ăn như thế không quan trọng – cả với Đức Chúa Trời lẫn với Phao-lô. Nhưng sự việc không phải vậy với nhiều người khác. Khó khăn tương tự liên hệ đến thức ăn thức uống và việc giữ ngày trong Rom 14:1-23, và nhiều vấn đề khác trong Col 2:16-23.

Với chúng ta thì vấn đề là làm thế nào để phân biệt đâu là điều quan trọng đâu là không, một vấn đề càng tăng cấp vì các việc ấy thay đổi từ văn hóa này sang văn hóa khác, từ nhóm Cơ Đốc nhân này sang nhóm Cơ Đốc nhân khác, y như việc đã xảy ra hồi thế kỷ thứ nhất vậy. Trong thế kỷ thứ hai mươi, chỉ nói riêng tại Hoa Kỳ mà thôi, một bảng liệt kê các vấn đề như thế gồm có việc ăn mặc (chiều dài của y phục, cà-vạt, kích cỡ rộng hẹp đối với phụ nữ), mỹ phẩm, đồ trang sức, các thú tiêu khiển, và giải trí (phim ảnh, TV, đánh bài, khiêu vũ, nam nữ bơi chung), các môn điền kinh, các thức ăn thức uống. Cũng như với số người phê phán tinh thần tự do của Phao-lô trong việc ăn của cúng tế thần tượng, những người cho rằng kiêng cữ bất kỳ điều gì trong các thành phần vừa kể trên là sống thánh khiết trước mặt Đức Chúa Trời không nghĩ rằng đó là những điều không quan trọng.

Vậy, điều gì khiến cho điều gì đó trở thành không quan trọng? Chúng tôi gợi ý các hướng dẫn sau đây:

1. Những điều cụ thể mà các Thư tín đã xem là những vấn đề không quan trọng thì vẫn có thể xem là không quan trọng , chẳng hạn thức ăn, thức uống, giữ ngày, vv..
2. Các vấn đề không quan trọng không gắn liền với luân lý đạo đức nhưng có tính cách văn hóa – cả khi nó bắt nguồn từ văn hóa tôn giáo. Do đó, các vấn đề thường thay đổi theo từng nền văn hóa, kể cả giữa vòng các tín hữu chân chính, thường có thể được coi là các vấn đề không quan trọng (chẳng hạn giữa văn hóa chấp nhận uống rượu và không uống rượu).

3. Các bảng liệt kê tội lỗi trong các Thư tín (thí dụ như Rom 1:29-30; ICor 5:11; 6:9-10; IITim 3:2-4) chẳng bao giờ kể luôn các điều mà chúng tôi vừa liệt kê trên đây để xem như tương đương với nhau. Hơn nữa những điều tương đương như thế chẳng bao giờ được đưa vào các bảng liệt kê khác nhau về các mệnh lệnh Cơ Đốc (thí dụ Rom 12:1-21; Eph 5:1-33; Col 3:1-25 vv…)

Dĩ nhiên không phải ai cũng sẽ nhất trí với cách thẩm định của chúng tôi. Tuy nhiên, theo RoRm 14:1-23, những người thuộc cả hai phía của bất kỳ những vấn đề nào trong số này đều không nên phê phán hay bài bác lẫn nhau. Người tự do không nên khoe khoang tinh thần tự do của mình; những người mà những vấn đề như thế vốn là niềm tin quyết sâu sắc của cá nhân cũng không nên kết án người khác.
Vấn Đề Tính Tương Đối Trong Văn Hóa

Ngày nay người ta gặp nhiều khó khăn và nhiều ý kiến bất đồng trong lãnh vực này. Đây là chỗ nảy sinh vấn đề Lời vĩnh hằng của Đức Chúa Trời được ban bố trong bối cảnh lịch sử cá biệt cách rõ rệt nhất. Vấn đề này có các bước như sau: (1) Các Thư Tín là những văn kiện được viết để giải quyết điều gì đó hồi thế kỷ thứ nhất, phải theo các điều kiện ngôn ngữ và văn hóa của thế kỷ thứ nhất, và nói trong những hoàn cảnh đặc thù trong Hội Thánh hồi thế kỷ thứ nhất. (2) Nhiều hoàn cảnh cụ thể trong các Thư tín hoàn toàn chịu ảnh hưởng của bối cảnh ở thế kỷ thứ nhất đến nỗi mọi người đều thừa nhận rằng rất khó – hoặc không thể – ứng dụng như là Lời Đức Chúa Trời cho tín hữu ngày nay, có lẽ ngoại trừ việc rút ra một vài nguyên tắc nào đó theo nghĩa rộng nhất (thí dụ việc đem chiếc áo choàng của Phao-lô còn để lại tại nhà của Cơ-rít-bu đến Trô-ách). (3) Nhiều đoạn văn khác bị bối cảnh của thế kỷ thứ nhất chi phối, nhưng Lời dạy của Chúa cho họ có thể được diễn dịch sang bối cảnh mới nhưng tương tự. (4) Do đó, không thể có những đoạn kinh văn khác, dầu rằng dường như chúng có các trường hợp cá biệt tương tự, cũng chịu chi phối bởi bối cảnh thế kỷ thứ nhất của chúng và cần được diễn dịch sang các bối cảnh mới hoặc chỉ đơn giản là cứ bỏ mặc chúng cho thế kỷ thứ nhất.

Hầu như toàn thể các Cơ Đốc nhân đều diễn dịch các bản văn Kinh Thánh sang các bối cảnh mới, ít nhất ở một mức độ nào đó. Tuy không nói thẳng ra, nhưng đây chính là lý do khiến nhiều tín hữu Tin Lành bảo thủ của thế kỷ hai mươi để vấn đề “uống chút ít rượu vì tì vị con yếu” ở thế kỷ thứ nhất, không nhấn mạnh đến vấn đề trùm đầu hoặc để tóc dài của phụ nữ ngày nay, và không thực hiện “cái hôn thánh.” Tuy nhiên, nhiều người trong số đó lại tỏ vẻ khó chịu khi có ai dùng nền tảng này để binh vực sự giảng dạy của phụ nữ trong Hội Thánh (khi có sự hiện diện của phái nam), và tức khắc bộc lộ thái độ bất mãn khi có người dùng nền tảng này bào chữa cho việc đồng tính luyến ái.

Nhiều người thường cố tìm cách phủ nhận ý niệm về tính tương đối của văn hóa, điều này đưa đến chỗ ít nhiều bênh vực cho quan điểm chấp nhận toàn thể nền văn hóa của thế kỷ thứ nhất như là mẫu mực của Đức Chúa Trời. Sự phủ nhận như vậy thường chỉ thành công ở một chừng mực nào đó mà thôi. Họ có thể giữ các con gái họ ở nhà không chịu cho chúng đến trường và tự sắp xếp để gả chồng cho chúng, nhưng họ lại thường cho phép chúng học đọc và ra ngoài công chúng mà chẳng mang tấm mạng che mặt. Người ta khó mà giữ được sự nhất quán, bởi vì chẳng hề có văn hóa nào được xem là chuẩn mực thiên thượng; văn hóa thường khác nhau, chẳng những từ thế kỷ thứ nhất cho đến thế kỷ thứ hai mươi, mà ngay trong chính thế kỷ thứ hai mươi này cũng có những lối nhận thức khác nhau.
Thay vì chối bỏ, chúng tôi cho rằng thừa nhận trong mức độ nào đó tính tương đối của văn hóa là phương thức giảng kinh có giá trị và là một kết quả tất yếu của tính chất cơ hội của các Thư tín. Nhưng chúng tôi cũng tin rằng muốn có giá trị, việc giảng kinh của chúng ta phải thực hiện trong những phương cách hợp lý.

Do đó, chúng tôi muốn đề nghị các hướng dẫn sau đây để phân biệt điều gì có tính văn hóa tương đối, và những điều gì vượt khỏi bối cảnh nguyên thủy của chúng và trở thành qui luật cho toàn thể Cơ Đốc nhân thuộc mọi thời đại. Chúng tôi không cho rằng các hướng dẫn này đã được “ban cho các thánh đồ một lần đủ cả,” nhưng chúng phản ánh lối suy nghĩ hiện tại của chúng tôi và chúng tôi muốn khuyến khích thảo luận sâu hơn và trao đổi nhiều hơn (nhiều đề nghị ở đây đã được một bạn đồng liêu cũ của chúng tôi là David M. Scholer cùng cộng tác thực hiện).

1. Trước hết, ta phải phân biệt giữa trọng tâm của sứ điệp Kinh Thánh với những gì là phụ thuộc. Điều này không nhằm đưa ra một “kinh điển trong kinh điển” (nghĩa là lấy một vài thành phần nào đó của Tân Ước làm chuẩn mực cho các phần khác), nhưng một mặt để bảo vệ Phúc Âm không bị văn hóa hay tập quán tôn giáo biến thành luật pháp, và một mặt giữ cho chính Phúc Âm không bị thay đổi theo từng hình thái văn hóa có thể cảm nhận được.

Chẳng hạn như đối với sự sa ngã của toàn thể nhân loại, sự cứu chuộc khỏi sự suy bại đó như là hành động ân điển của Đức Chúa Trời qua sự chết và sống lại của Chúa Cứu Thế, chung cuộc của công tác cứu chuộc đó bởi sự tái lâm của Chúa Cứu Thế v.v… rõ ràng đều là trọng tâm của sứ điệp. Nhưng cái hôn thánh, vấn đề phụ nữ trùm đầu, các chức vụ và các ân tứ thuộc linh… thì có vẻ là những vấn đề phụ thuộc.

2. Tương tự như thế, chúng ta cần phải biết phân biệt giữa điều gì chính Tân Ước xem như thuộc về đạo đức, và điều gì không phải. Do đó, những điều có tính cách đạo đức là tuyệt đối và có trong tất cả các nền văn hóa; những điều không thuộc về đạo đức là những hình thái văn hóa và có thể thay đổi từ một nền văn hóa này sang một nền văn hóa khác.

Thí dụ những tội lỗi mà Phao-lô liệt kê không phải là những điều thuộc về văn hóa. Dĩ nhiên một số các tội ấy chiếm ưu thế hơn trong một nền văn hóa này so với một nền văn hóa khác, nhưng chẳng bao giờ có những hoàn cảnh nào mà trong đó chúng có thể được chấp nhận như là thái độ hoặc hành động của Cơ Đốc nhân. Vì thế, ngoại tình, thờ thần tượng, say rượu, hoạt động đồng tính luyến ái, trộm cắp, tham lam, v.v… (ICo1Cr 6:9-10) luôn luôn là điều sai trái. Nói như thế không có nghĩa là bảo rằng các Cơ Đốc nhân chẳng bao giờ phạm vào bất cứ một tội nào trong số này, nhưng muốn nói rằng đây không phải là những điều người ta có thể lựa chọn. Do linh cảm của Đức Thánh Linh, Phao-lô viết “Trước kia, anh em ít nữa cũng có một đôi người như thế…Nhưng anh em đã được rửa sạch rồi…”

Mặt khác, rửa chân, trao nhau cái hôn thánh, ăn các thức ăn đã cúng tế cho các thần tượng, phụ nữ có khăn trùm đầu khi cầu nguyện hoặc nói tiên tri, việc cá nhân Phao-lô thích sống độc thân hơn, hay một phụ nữ dạy dỗ trong Hội Thánh, thì không phải là các vấn đề thuộc về đạo đức. Chúng chỉ trở thành như thế do việc sử dụng hay lạm dụng chúng trong những bối cảnh nhất định nào đó, khi việc sử dụng hay lạm dụng đó liên quan đến sự không vâng lời hay thiếu tình yêu thương.

3. Ta phải đặc biệt chú ý đến những điều mà chính Tân Ước có lời chứng đồng bộ và nhất quán và những điều mà Tân Ước không có ý kiến đồng nhất. Những điều mà cả Tân Ước đều luôn luôn chứng thực chẳng hạn như: tình yêu thương như cách đáp ứng đạo đức căn bản của Cơ Đốc nhân, một nền đạo đức không có trả thù cá nhân, sự sai trật của việc tranh cạnh, thù ghét nhau, giết người, trộm cắp, đồng tính luyến ái, say rượu, và tà dâm đủ loại. Trái lại, dường như Tân Ước không có ý kiến đồng nhất về các vấn đề như phụ nữ thi hành chức vụ trong Hội Thánh (xem RoRm 16:1-2, chỗ bà Phê-bê là một “chấp sự” tại Sen-cơ-rê, RoRm 16:7, chỗ Giu-ni-a (Junia) – không phải là Giu-ni-át (Junias) là tên một người nam chẳng biết là ai — đã được kể tên trong số các sứ đồ; Rom 16:3, chỗ bà Bê-rít-sin là bạn đồng công của Phao-lô — cùng một từ ngữ đã được dùng để chỉ A-bô-lô trong ICor 3:9; Philip 4:2-3; ICor 11:5 đối chiếu với ITim 2:12 (và ICor 14:34-35 mà trong văn bản đã có chỗ đáng ngờ), cách đánh giá Rô-ma về phương diện chính trị (xem Rom 13:1-5; IPhiero 2:13-14; đối chiếu với KhKh 13:1-18:24), việc giữ lại của cải (Luca12:33; 18:22; đối chiếu với ITim 6:17-19) hoặc vấn đề ăn thịt đã cúng tế cho các thần tượng (ICor 10:23-29; đối chiếu với Cong Vu 15:29; Khai Huyen 2:14, 20). Nếu có gợi ý nào trong số này làm bạn xúc động có lẽ bạn đã tự hỏi tại sao.

Cách giải kinh đúng đắn có thể giúp chúng ta thấy có sự đồng nhất hơn là điều có vẻ như là trường hợp hiện nay. Thí dụ, trong vấn đề thức ăn cúng tế thần tượng, ta có thể thực hiện một trường hợp giải kinh đúng cho từ ngữ Hi-lạp trong Công Vụ và Khải Thị đề cập việc vào các đền miếu để ăn một thức ăn như thế. Trong trường hợp này, thái độ ấy sẽ đồng nhất với thái độ của Phao-lô trong ICor 10:14-22. Tuy nhiên, chính vì nhiều vấn đề khác lại có vẻ thuộc về văn hóa nhiều hơn là đạo đức, ta không nên bối rối do thiếu sự đồng nhất. Cũng thế, ta không nên theo đuổi việc giải kinh như là phương pháp duy nhất để tìm cho ra tính cách đồng nhất thậm chí đến độ phải loại bỏ nhận thức thông thường hoặc bỏ qua ý nghĩa rõ ràng của bản văn.

4. Điều quan trọng là phải có khả năng phân biệt ngay trong Tân Ước giữa phần nguyên tắc với phần ứng dụng cụ thể. Có thể một trước giả Tân Ước hậu thuẫn cho một cách ứng dụng tương đối bằng một nguyên tắc tuyệt đối, và khi làm như thế, đã không biến cách ứng dụng đó thành tuyệt đối. Thí dụ như trong ICor 11:2-16, Phao-lô đã viện dẫn đến trật tự sáng tạo của Đức Chúa Trời (c.3) để thiết lập nguyên tắc rằng người ta không nên làm một điều gì phương hại đến sự vinh hiển của Đức Chúa Trời (nhất là bằng cách vi phạm quy ước) khi cộng đồng đang thờ phượng (c.7,10). Tuy nhiên, cách ứng dụng cụ thể này dường như chỉ có tính cách tương đối, vì Phao-lô vẫn nhiều lần viện đến “lẽ tự nhiên” hoặc “thói quen” (c. 6, 13-14, 16).

Điều này đưa chúng tôi đến chỗ gợi ý rằng khi gặp những ứng dụng cụ thể như thế, ta có thể đặt câu hỏi hợp lý rằng “Đây có phải là áp dụng cho chúng ta hay không, nếu như ta không gặp nó trong các tài liệu của Tân Ước?” Trong các nền văn hóa Tây phương, một phụ nữ không trùm đầu (nhất là phần tóc) bằng một tấm mạng thật dài có lẽ sẽ chẳng có vấn đề gì. Thật ra, nếu người phụ nữ đó tuân thủ câu Kinh Thánh này theo nghĩa đen trong các Hội Thánh hiện nay thì đã lạm dụng “tinh thần” của câu Kinh Thánh. Chỉ cần suy nghĩ một chút ta có thể tưởng tượng ra một loại y phục – cả nam lẫn nữ – được mặc không đúng chỗ sẽ làm mất trật tự trong giờ thờ phượng.

5. Xác định những lựa chọn văn hóa mà một tác giả Tân Ước đón nhận có lẽ cũng là điều quan trọng, nhất là khi làm điều này cách cẩn trọng. Mức độ mà một tác giả Tân Ước đồng ý với một hoàn cảnh văn hóa trong đó chỉ có một chọn lựa duy nhất sẽ làm gia tăng tính tương đối văn hóa của hoàn cảnh đó. Chẳng hạn như đồng tính luyến ái đã được các tác giả thời cổ đại vừa khẳng định vừa lên án, thế nhưng Tân Ước chỉ đưa ra một lập trường đơn giản chống lại nó mà thôi. Mặt khác, các quan điểm đối với chế độ nô lệ hoặc với quy chế và vai trò của phụ nữ đều đơn giản về cơ bản; chẳng có ai tố cáo chế độ nô lệ là gian ác, và về cơ bản thì phụ nữ bị xem là thấp kém hơn đàn ông. Các tác giả Tân Ước cũng không tố giác chế độ nô lệ như một điều ác; mặt khác, họ vượt lên trên các quan điểm về phụ nữ của những người đương thời. Nhưng trong cả hai trường hợp, với mức độ phản ánh các quan điểm văn hóa chiếm ưu thế trong các vấn đề ấy, họ chỉ lựa chọn một văn hóa duy nhất trong thế giới chung quanh.

6. Ta phải cảnh giác đối với các điểm dị biệt về văn hóa có thể có giữa thế kỷ thứ nhất với thế kỷ thứ hai mươi, điều mà nhiều khi lại không được nhìn thấy rõ ràng ngay tức khắc. Thí dụ, muốn xác định vai trò của phụ nữ trong thế kỷ hai mươi, ta phải xét đến sự kiện phụ nữ của thế kỷ thứ nhất đã có rất ít cơ hội đi học, trong khi trong xã hội chúng ta giáo dục là điều bắt buộc. Điều này có thể ảnh hưởng đến cách hiểu của chúng ta liên quan với những phân đoạn như ITim 2:9-15. Cũng thế, một nền dân chủ có sự tham dự của toàn dân cũng khác hẳn với chính quyền mà Phao-lô đã đề cập trong RoRm 13:1-7. Trong một nền dân chủ có sự tham dự của toàn dân thì ai nấy đều mong muốn thay đổi các luật lệ không thích hợp và loại trừ các quan chức hủ bại. Điều đó ảnh hưởng đến cách ta áp dụng Roma 13:1-14 vào nước Mỹ của thế kỷ thứ hai mươi này.

7. Cuối cùng, ta phải thực hành tình yêu thương Cơ Đốc tại điểm này. Cơ Đốc nhân phải thấy được những khó khăn, phải cùng nhau thảo luận, bắt đầu bằng cách xác định một số nguyên tắc, và cuối cùng phải yêu thương và sẵn sàng xin sự tha thứ từ những người bất đồng với mình.

Trước khi kết thúc phần thảo luận này, sẽ ích lợi nếu chúng ta biết cách áp dụng các hướng dẫn này cho hai vấn đề thông thường: chức vụ của phụ nữ và vấn đề đồng tính luyến ái, nhất là khi một số người bênh vực cho các chức vụ của phụ nữ đang dùng cùng một vài luận cứ như thế để hậu thuẫn cho đồng tính luyến ái, xem đó là như một lựa chọn có giá trị của Cơ Đốc nhân.

Vấn đề phụ nữ giữ vai trò giáo sư hay truyền đạo trong Hội Thánh chủ yếu nằm ở hai phần Kinh Thánh ICor 14:34-35 và ITim 2:11, 12. Trong cả hai trường hợp “im lặng” và “thuận phục” được gắn liền với nhau – tuy trong cả hai trường hợp không có trường hợp nào sự thuận phục nhất thiết phải là đối với chồng mình cả – còn trong ITim 2:1-15, phụ nữ không được phép dạy dỗ hoặc “cầm quyền trên” người nam. Nếu làm theo phần Kinh Thánh này trong thế kỷ hai mươi thì dường như chẳng những sẽ không cho phụ nữ truyền giảng và dạy dỗ trong chi hội địa phương, mà còn cấm phụ nữ viết sách về các đề tài trong Thánh Kinh mà có thể đàn ông sẽ đọc, cấm phụ nữ dạy Kinh Thánh hoặc các đề tài liên hệ (kể cả giáo dục tôn giáo) trong các trường cao đẳng Cơ Đốc hoặc Thánh Kinh học viện nơi có đàn ông trong các lớp học, và cấm dạy dỗ đàn ông về các tình hình truyền giáo. Nhưng những người chống lại việc phụ nữ dạy dỗ trong Hội Thánh ngày nay rất ít khi đưa việc giải nghĩa đi xa đến thế. Và hầu như họ luôn luôn xem các vấn đề về ăn mặc trong câu trước đó (ITim 2:9) chỉ mang tính tương đối về mặt văn hóa.

Mặt khác, việc ITim 2:11-12 mang tính tương đối về mặt văn hóa có thể được hậu thuẫn trước hết bằng việc giải kinh cả ba Thư tín Mục vụ. Một số phụ nữ thường gây rối trong Hội Thánh tại Ê-phê-sô (ITim 5:11-15; IITim 3:6-9) và dường như họ là số đông đã gây ra việc các tiên tri giả muốn cầm đầu ở đây. Vì người ta đã thấy có các phụ nữ dạy dỗ (Cong Vu 18:26) và nói tiên tri (Cong Vu 21:8; ICo1Cr 11:5) ở nhiều nơi khác trong Tân Ước, rất có thể rằng ITim 2:11-12 đang đề cập một vấn đề ở địa phương. Dù sao thì phần hướng dẫn trên đây cũng hậu thuẫn cho việc rất có thể rằng điều cấm đoán trong ITim 2:11-12 mang tính tương đối về mặt văn hóa.

Tuy nhiên về vấn đề đồng tính luyến ái thì khác hơn rất nhiều. Trong trường hợp này, lời chỉ dẫn chống lại việc xem đây là một vấn đề mang tính tương đối về mặt văn hóa. Toàn bộ Kinh Thánh luôn luôn chống lại hoạt động đồng tính luyến ái, xem đó là sự hủ bại đạo đức.
Trong mấy năm gần đây, có một số người lý luận rằng việc đồng tính luyến ái mà Tân Ước chống lại là việc có người lạm dụng người khác, và vấn đề đồng tính luyến ái giữa một cặp hai người trưởng thành đồng ý thực hiện riêng với nhau, là một vấn đề khác hẳn. Họ lý luận rằng trên cơ sở giải kinh, người ta không thể chứng minh được rằng thói đồng tính luyến ái đã bị cấm. Người ta cũng lý luận rằng đứng về mặt văn hóa mà nói, thì đó là những cách chọn lựa của thế kỷ hai mươi, vốn không có hồi thế kỷ thứ nhất. Do đó, họ sẽ cãi rằng một số các hướng dẫn của chúng tôi (thí dụ 5, 6) mở đường cho việc có thể xem các cấm đoán của Tân Ước đối với việc đồng tính luyến ái cũng có tính tương đối về mặt văn hóa, rồi họ lý luận thêm rằng một số các hướng dẫn ấy là không đúng hoặc không thích hợp.

Tuy nhiên, luận cứ này không thể đứng vững cả về mặt giải kinh lẫn lịch sử. Việc đồng tính luyến ái mà Phao-lô đề cập trong RoRm 1:24-28 rõ ràng không thuộc loại “lạm dụng”; nó là thói đồng tính luyến ái tự chọn giữa những người nam và giữa những người nữ với nhau. Hơn nữa, từ ngữ đồng tính luyến ái mà Phao-lô đã dùng trong ICo1Cr 6:9 theo nghĩa đen là đồng tính luyến ái giữa hai người nam (kẻ đắm nam sắc) và luôn luôn được đặt vào trong các văn mạch đạo đức, đơn giản chỉ vì chẳng có ai chứng minh được rằng việc chọn lựa đồng tính luyến ái ngày nay là khác hơn hồi thế kỷ thứ nhất, cho nên dường như cũng chẳng có cơ sở có giá trị nào để cho rằng đó chỉ là một vấn đề tương đối của văn hóa.

Tác giả: Gordon D. Fee và Douglas Stuart