Ma-thi-ơ
Tác giả:
Ông Ma-thi-ơ.
Thời kỳ hình thành:
Không biết rõ (50 – 80 S.C)

 

Mục đích:

1. Chứng minh Chúa Giê-xu là Vị Vua Đức Chúa Trời đã hứa.

2. Giãi bày đường lối Chúa Giê-xu thiết lập vương quốc của Ngài.

Đối tượng: Thành phần mộ đạo đang gặp nguy cơ bị giới lãnh đạo tôn giáo tìm kiếm sự công nghĩa theo cách riêng của mình dẫn dụ sai lạc.

Tản mạn

Cuối cùng, tàu tuần tra của Hải quân tìm ra chiếc xuồng bị lật úp. Chiếc xuồng này đưa toán nhân viên trông coi ngọn hải đăng đến ngọn hải đăng. Khi xuồng bị lật, trên xuồng có sáu người. Các thuỷ thủ hải quân vội vớt những người sống sót nhờ bám chặt vào mạn của chiếc thuyền bị lật. Sau đó họ khám phá ra môt điều nghịch lý là: tất cả mấy người được cứu đều không biết bơi. Còn mấy người mất tích ( có lẽ chết đuối) đều biết bơi. Trong lĩnh vực thuộc linh, tội nhân chờ đợi Chúa Cứu Thế cũng giống như mấy người không biết bơi trong câu chuyện có thật này. Nhưng hễ ai tin Chúa Cứu Thế Giê-xu đến để cứu họ đều được cứu và được vào Nước Trời. Nhưng ai trông cậy sự công bình riêng để vào Nước Thiên Đàng thì sẽ bị bỏ ra ngoài. Sự tự lực không thể cứu người biết bơi khỏi bị chết đuối. Còn công bình riêng cũng không thể cứu tội nhân thoát khỏi địa ngục.

Thâm nhập

Bài học chính

Phúc Âm Ma-thi-ơ dạy chúng ta biết phải làm thế nào để có thể vào Nước Thiên Đàng .

Chủ đề chính

Nước Thiên Đàng được nhắc đến 33 lần trong sách này.

Cụm từ chính “vào Nước Thiên Đàng” xuất hiện sáu lần (5:207:2118:319:23,2423:13). Có thể chia Phúc Âm Ma-thi-ơ làm bảy phần.

Phần đầu tiên và cuối cùng là phần dẫn nhập và kết luận. Tất cả năm phần giữa đều có ghi lại một bài giảng của Chúa Giê-xu. Cả năm bài giảng này đều kết với câu “khi Đức Chúa Giê-xu phán các lời ấy xong” (7:2811:113:5319:126:1).

I. Ăn năn để được vào vương quốc của Chúa Cứu Thế (1-4)

Chương 1 đến 4 là phần dẫn nhập và phần thứ nhất của sách Phúc Âm này. Ở đây, ông Ma-thi-ơ giới thiệu Đức Vua (Chúa Cứu Thế) của Nước Trời bằng cách mô tả sự giáng sinh và chức vụ của Ngài trong giai đoạn đầu. Thánh Kinh Cựu Ước có ghi nhiều lời tiên tri về sự xuất hiện của vị Vua hợp pháp của dân Do Thái. Ông Ma-thi-ơ trình bày rằng Chúa Cứu Thế Giê-xu đã làm ứng nghiệm tất cả những lời tiên tri trong Kinh Thánh Cựu Ước chứng tỏ Ngài là Vị Vua hợp pháp (1:222:51517233:34:14). Ngài cũng làm ứng nghiệm luật pháp thời Cựu Ước, như vậy cũng chứng tỏ Ngài là Vị Vua công nghĩa (3:15). Thông điệp của Vua được loan báo trước tiên, không phải bởi chính Vua mà bởi người đi trước mở đường cho Ngài là ông Giăng Báp-tít. Sứ điệp đó là “Hãy ăn năn vì nước thiên đàng đã đến gần” (3:2). Chính mình Vua cũng lặp lại sứ điệp này khi Ngài bắt đầu chức vụ (4:17). Trong sứ điệp này, Ngài bày tỏ rằng muốn vào nước thiên đàng thì bước đầu tiên là ăn năn tội và quay về với Đức Chúa Trời.

II. Tiếp nhận sự công nghĩa để vào vương quốc của Chúa Cứu Thế (5-7)

Nếu ăn năn là bước thứ nhất để vào nước thiên đàng thì sự công nghĩa là nước thứ hai. Phần thứ hai có ghi lại bài giảng thứ nhất của Vua. Người ta thường mệnh danh cho bài giảng này là “Bài Giảng Trên Núi” vì Chúa Giê-xu truyền dạy cho các môn đệ Ngài ở một sườn núi (5:1). Bài giảng này có hai chủ đề xuyên suốt năm phần nhỏ. Hai chủ đề đó là Sự Công Nghĩa và Nước Thiên Đàng. Năm phần nhỏ gồm có:

1. Tám phước lành của sự công nghĩa để sở hữu vương quốc (5:1-16).

2. Sáu tiêu chuẩn của sự công nghĩa để vào vương quốc (5:17-48).

3. Ba sự thực thi sự công nghĩa để làm hài lòng Cha trong vương quốc (6:1-18).

4. Ba điều nên làm, Bốn điều không nên làm trong khi tìm kiếm sự công nghĩa và vương quốc của Ngài (6:19-7:12).

5. Ba sự chọn lựa của sự công nghĩa để vào vương quốc (7:13-27). Năm câu Kinh Thánh của năm phần nhỏ này cho chúng ta sứ điệp cốt lõi của bài giảng:

1. “Phước cho những kẻ đói khát sự công bình, vì sẽ được no đủ” (5:6).

2. “Vì ta phán cho các ngươi rằng, nếu sự công bình của các ngươi chẳng trổi hơn sự công bình của các thầy thông giáo và người dòng Pha-ri-si, thì các ngươi chắc không vào nước thiên đàng” ( 5:20). (Thầy thông giáo và người Pha-ri-si là giới lãnh đạo cậy công đức riêng đang dẫn dắt dân Do Thái) .

3. “Hãy giữ, đừng làm sự công bình trước mặt người ta, cho họ đều thấy. Bằng không, thì các ngươi chẳng được phần thưởng gì của Cha các ngươi ở trên trời” (6:1).

4. “Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa” (6:33).

5. “Chẳng phải hễ những kẻ nói cùng ta rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, thì đều được vào nước thiên đàng đâu; nhưng chỉ kẻ làm theo ý muốn của Cha ta ở trên trời mà thôi” (7:21).

Tóm lại, Bài Giảng Trên Núi dạy chúng ta cần nhận lấy sự công nghĩa của Chúa Cứu Thế như một món quà (7:11) để vào Nước Thiên Đàng. Ăn năn là bước thứ nhất và được xưng công nghĩa là bước thứ hai để vào Thiên Đàng. Tuy nhiên, tiêu chuẩn Nước Trời không phải là sự công bình riêng của chúng ta mà là sự công bình của Chúa Cứu Thế. Đó là sự công bình mà Chúa Giê-xu đã chứng minh Ngài vốn có khi Ngài làm ứng nghiệm luật pháp trong Kinh Cựu Ước.

III. Tiếp nhận vô điều kiện vương quốc của Chúa Cứu Thế (8-10)

Bài giảng thứ nhất ghi lại lời giảng đạo của Vua. Bài giảng thứ hai là lệnh của Vua truyền cho mười hai môn đệ. Ngài bảo họ ra đi rao truyền sứ điệp của Nước Trời. Sứ điệp mà họ sẽ rao giảng là “Nước Trời đã đến gần” (10:7). Và Nước Trời được biếu không cho mọi người (10:8). Trong phần này, Chúa Giê-xu thực hiện mười phép lạ trên bệnh tật, ma quỷ và sự chết để chứng tỏ rằng Ngài không những có quyền làm Vua mà Ngài còn có quyền năng và quyền lực của một Vị Vua. Rồi Ngài cũng ban cho các môn đệ quyền năng đó để họ thực hiện các phép lạ như Ngài đã làm (10:1). Quyền năng này trở nên bằng cớ minh chứng rằng lời giảng dạy của họ là xác thực.

IV. Đừng khước từ vương quốc của Chúa Cứu Thế (11-13)

Nhưng người Do Thái nghi ngờ sứ điệp của Chúa Giê-xu. Thật ra, ngay cả ông Giăng Báp-tít cũng đâm ra hoài nghi không rõ Ngài có phải là Vị Vua mà Đức Chúa Trời hứa ban cho nhân loại hay không (11:2-3). Còn người Pha-ri-si thì khước từ Ngài cách thẳng thừng. Họ lên án Ngài dùng quyền của Sa-tan để làm phép lạ (12:24). Sự thể này khiến Chúa Giê-xu giảng bài thứ ba. Bài giảng thứ ba hoàn toàn khác với hai bài giảng trước: hầu như trong toàn bộ bài giảng này Chúa Giê-xu giảng dạy bằng ẩn dụ (13:3-52). Ngài dùng các ẩn dụ nhằm mục đích giấu sứ điệp về Nước Trời đối với những người (giống như người Pha-ri-si) từ khước Ngài (13:14-15). Trái lại, trong hai bài giảng trước, mục đích của Ngài là tiết lộ sứ điệp của Ngài cho tất cả những người bằng lòng tiếp nhận Ngài. Trước thời điểm này, sứ điệp của Vua là vương quốc của Ngài đã “kề cận” (3:24:1710:7). Đến thời điểm này, Ngài tiết lộ rằng vương quốc vẫn bành trướng bất chấp sự cản trở của những thành phần chống đối quyết liệt (11:12). Giờ đây, vương quốc đã đến với họ (12:28). Dầu vậy, vì dân Y-sơ-ra-ên từ khước Đức Vua nên một thời gian nữa vương quốc của Ngài mới hình thành hoàn toàn (13:31-33).

V. Nhờ Chúa Cứu Thế để vào vương quốc của Chúa Cứu Thế (14-18)

Sau khi người Pha-ri-si từ khước Chúa Giê-xu, Ngài tập trung giảng dạy riêng cho các môn đệ. Ngài dạy họ rằng mặc dù thiên hạ chưa nhận ra Ngài là Vua dân Do Thái Ngài vẫn tiếp tục xây dựng Vương quốc của Ngài trong một mảng khác mệnh danh là Hội Thánh (16:18-19). Về sau ai nấy đều rõ là đại đa số người trong Hội Thánh này là dân ngoại tộc (không phải là dân Do Thái) . Chúa Giê-xu báo trước rằng việc dân Do Thái từ khước Ngài cuối cùng sẽ dẫn đến cái chết của chính Ngài. Ngài biết các môn đệ sẽ nản lòng và thất vọng. Vì vậy, Ngài hứa với họ rằng Ngài sẽ từ kẻ chết sống lại để thiết lập Vương quốc của Ngài (16:21-28). Nhưng trước khi hy sinh tính mạng, Chúa phải dạy họ bài học về đức tin. Trong phần này, ba lần Chúa Giê-xu quở trách các môn đệ Ngài vì cớ họ không có hoặc kém đức tin (14:3116:817:17-20). Ngược lại, Ngài đề cao một thiếu phụ người ngoại bang coi bà là một tấm gương về đức tin (15:28). Rồi trong bốn bài giảng của Ngài (Chương 18) , Ngài dạy rằng họ phải có đức tin và khiêm tốn như một đứa trẻ thì mới được vào nước thiên đàng (18:3-4). Dựa vào tấm gương về đức tin của thiếu phụ người ngoại bang và tánh khiêm tốn của thiếu nhi, Chúa Giê-xu nhấn mạnh rằng các môn đệ cần phải khiêm nhu và tin cậy nơi Ngài.

VI. Người công nghĩa sẽ vào Vương quốc của Chúa Cứu Thế (19-25)

Nhưng làn sóng chống đối Chúa Giê-xu do người Pha-ri-si cầm đầu vẫn tiếp tục dâng cao. Chúa bình phẩm về thành phần giả hình này bằng những lời lẽ mạnh mẽ. Ngài cảnh cáo họ rằng giới thâu thuế và gái mãi dâm sẽ được vào Nước Trời trước họ (21:31). Ngài sẽ cất Nước Trời khỏi dân Do Thái và ban cho Dân Ngoại (21:43). Trong Chương 23, Ngài công bố bảy lời nguyền rủa đối với người Pha-ri-si. Nước Trời sẽ đóng kín đối với những người đạo đức giả và giả bộ tin kính (23:13), là kẻ tự xem mình là công bình (23:29); rồi Ngài sẽ ban Nước Trời cho những người mà Nước Trời đã sắm sẵn cho họ (25:34).