Thần Học Nhiệm Vụ – (Task Theology)
Trong chương trước, chúng ta đã ghi nhận rằng phần lớn thần học trong các Thư tín có tính chất hướng vào nhiệm vụ, do đó đã không được trình bày một cách có hệ thống. Tuy nhiên nói như thế không có nghĩa là chúng ta không thể trình bày những gì được bộc lộ hoặc rút ra từ các Thư tín một cách có hệ thống. Trái lại, đây là một trong những công tác bắt buộc đối với các sinh viên nghiên cứu Kinh Thánh. Sinh viên phải luôn thiết lập – và “tái lập” một thần học Kinh Thánh trên cơ sở giải kinh đúng đắn. Chúng tôi thừa nhận rằng người ta thường dễ thấy được tư tưởng thần học của một tác giả qua những giả định và hàm ý cũng như qua các lời tuyên bố rõ ràng của tác giả đó.
Những gì chúng tôi muốn làm ở đây là nêu ra một vài điểm cần chú ý khi ta bắt tay vào công tác thần học. Những điều cần lưu ý này vốn là kết quả trực tiếp của tính chất tùy dịp (occasional nature) của các Thư tín.
1. Vì tính chất tùy dịp của chúng, thỉnh thoảng chúng ta phải hài lòng với một số hạn chế trong sự hiểu biết thần học của mình. Thí dụ, muốn cho người Cô-rinh-tô thấy được việc hai anh em (Cơ Đốc nhân) lại kéo nhau ra trước tòa án ngoại đạo để kiện cáo nhau là phi lý như thế nào, Phao-lô nhấn mạnh rằng có một ngày, các Cơ Đốc nhân sẽ phán xét cả người thế gian lẫn các thiên sứ (ICo1Cr 6:2-3). Nhưng đoạn văn chẳng nói gì thêm về điều đó. Như thế, chúng ta có thể khẳng định rằng Cơ Đốc nhân sẽ góp phần phán xét trong ngày tận thế. Tuy rằng chúng ta không biết điều đó có ý nghĩa gì hoặc sự việc sẽ diễn tiến như thế nào. Ngoài chính điều đã được khẳng định ra, thì mọi cái khác đều chỉ là suy luận mà thôi.
Tương tự như thế, trong ICo1Cr 10:16-17, Phao-lô căn cứ vào bản tính của việc các tín hữu Cô-rinh-tô dự phần vào Tiệc Thánh để lý luận rằng họ không thể cùng dự phần giống như thế trong các bữa cúng tế thần tượng. Điều Phao-lô nói về việc dự phần đó dường như vượt quá quan điểm thần học về Tiệc Thánh trong hầu hết các Giáo hội Tin Lành. Đây không chỉ là sự kỷ niệm, mà còn thật sự dự phần vào chính Chúa nữa. Căn cứ vào nhiều đoạn Kinh Thánh Tân Ước khác, chúng ta có thể lý luận thêm rằng việc dự phần ấy là nhờ vào Đức Thánh Linh và được lợi ích nhờ đức tin. Nhưng ngay cả tại đây, chúng ta đang vượt ra ngoài các câu Kinh Thánh để diễn tả nhận thức của Phao-lô một cách thần học, và nhiều người sẽ không đồng ý với chúng ta về việc lựa chọn bên ngoài các câu Kinh Thánh như thế. Luận điểm của chúng tôi là đơn giản, chúng ta không được cho biết tính chất chính xác của sự tham dự đó là gì, cũng không được cho biết các lợi ích sẽ đến với người tín hữu là gì. Tất cả chúng ta đều muốn biết, nhưng sự hiểu biết của chúng ta có khuyết điểm chính vì tính chất cơ hội của các câu phát biểu kia. Những gì được nói vượt ra ngoài điều chính đoạn kinh văn tiết lộ không thể có cùng ý nghĩa Kinh Thánh hay giảng kinh như điều được nói đến dựa trên cách giải kinh đúng đắn. Do đó mà chúng ta chỉ dám khẳng định rằng trong Kinh Thánh, Đức Chúa Trời đã ban cho tất cả những gì chúng ta cần, chứ không nhất thiết là tất cả những gì chúng ta muốn.
2. Nhiều khi các vấn đề thần học mà chúng ta gặp với các Thư tín xuất phát từ việc chúng ta đặt câu hỏi của mình cho đoạn kinh văn, nhưng do tính chất tùy dịp của chúng, các đoạn Kinh Thánh ấy chỉ trả lời cho các vấn đề của chúng mà thôi. Khi chúng ta yêu cầu chúng đề cập trực tiếp vấn đề phá thai, hay tái hôn, hoặc làm phép báp-tem cho trẻ con, là chúng ta muốn chúng trả lời cho các câu hỏi của một thời kỳ về sau này. Nhiều khi chúng có thể làm việc ấy, nhưng thường thường thì không, vì câu hỏi đã không được đặt ra cho thời bấy giờ.
Có một thí dụ rõ ràng cho việc này ngay trong Tân Ước. Khi đề cập về vấn đề ly dị Phao-lô nói: “Không phải tôi, bèn là Chúa” (ICo1Cr 7:10) ngụ ý rằng chính Chúa Giê-xu đã dạy về vấn đề này. Nhưng về câu hỏi được đặt ra trong một môi trường Hi Lạp rằng một tín hữu có nên ly dị với người bạn đời ngoại đạo của mình không, thì rõ ràng là Chúa Giê-xu không có dịp để dạy điều này, vì nó nằm ngoài môi trường văn hóa Do Thái của Ngài. Nhưng Phao-lô phải phát biểu ý kiến về vấn đề ấy, cho nên ông nói: “(Đây) chẳng phải Chúa, song là chính tôi…” (c.12). Lẽ dĩ nhiên, một trong các vấn đề của chúng ta là bản thân chúng ta không có được cả uy quyền sứ đồ, lẫn sự linh cảm như của Phao-lô. Do đó, cách duy nhất để chúng ta lên tiếng về những vấn đề như thế là căn cứ trên thần học Kinh Thánh toàn diện; gồm có sự hiểu biết của chúng ta về công trình sáng tạo vũ trụ, sự sa ngã, sự cứu chuộc, và sự chung cuộc. Nghĩa là, chúng ta phải cố gắng giải quyết vấn đề theo quan điểm Kinh Thánh. Nhưng sẽ không có chứng cứ bằng bản văn nếu không có các câu Kinh Thánh nào bày tỏ trực tiếp.
Trên đây là một số gợi ý về giảng kinh của chúng tôi để giúp bạn đọc và giải thích các Thư Tín. Mục đích gần của chúng tôi là đạt đến sự chính xác và nhất quán càng hơn; mục tiêu xa hơn là kêu gọi tất cả chúng ta làm theo càng hơn những gì chúng ta đã nghe và hiểu.
Những Truyện Ký Trong Cựu Ước: Cách Sử Dụng Thích Hợp
Trong Kinh Thánh, thể văn truyện ký chiếm đa số so với bât kỳ thể văn nào khác. Trên 40% Cựu Ước là thể văn truyện ký. Vì Cựu Ước chiếm ba phần tư Kinh Thánh, nên chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi thể văn phổ biến duy nhất trong toàn bộ Kinh Thánh là thể văn truyện ký. Các sách sau đây của Cựu Ước phần lớn hoặc hoàn toàn ở dạng truyện ký: Sáng Thế Ký, Giô-suê, Các Quan Xét, Ru-tơ, I Và II Sa-mu-ên, I và II Các Vua, I và II Sử Ký, E-xơ-ra, Nê-hê-mi, Đa-ni-ên, Giô-na, A-ghê. Hơn nữa, Xuất Ê-díp-tô Ký, Dân Số Ký, Giê-rê-mi, Ê-xê-chi-ên, Ê-sai, Gióp cũng gồm nhiều phần về đại thể là văn truyện ký. Trong Tân Ước, phần lớn các sách Phúc Âm, và hầu như cả sách Công vụ cũng là văn truyện ký.
Chúng tôi giả định rằng Thánh Linh biết rõ việc Ngài làm khi linh cảm nhiều phần trong Kinh Thánh dưới hình thức truyện ký. Có thể là thể văn này thuận tiện cho mục đích mặc khải của Đức Chúa Trời. Chương này sẽ nói đến thế nào thể văn ấy phục vụ mục đích của Đức Chúa Trời và cách thế nào chúng ta sử dụng nó trong sự phục vụ Ngài.
Tính Chất của Truyện Ký
Truyện Ký Là Gì?
Truyện ký (narratives) là những câu chuyện (stories). Tuy thỉnh thoảng chúng ta có dùng chữ câu chuyện để mô tả chúng, nhưng chúng tôi thích từ ngữ truyện ký hơn, vì chữ câu chuyện dễ khiến người ta hiểu là điều gì đó được tưởng tượng ra, được hư cấu như trong “chuyện cổ tích,” “chuyện đời xưa.” Nó cũng có xu hướng nghiêng về một mẫu chuyện đơn sơ với một số nhân vật và một cốt chuyện. Mặt khác, Kinh Thánh hàm chứa điều mà chúng ta thường được nghe gọi là câu chuyện của Đức Chúa Trời – một câu chuyện hoàn toàn có thật, vô cùng quan trọng, và thường phức tạp. Đó là một câu chuyện uy nghi hơn cả những bản anh hùng ca vĩ đại nhất, nội dung phong phú với các nhân vật và cách mô tả ý nghĩa hơn bất kỳ một truyện tích nào từng được con người viết ra. Cho nên, với các phần của câu chuyện thiên thượng vĩ đại mang hình thức chuyện kể này, từ truyện ký thích hợp hơn theo cách dùng thuật ngữ, vì từ này khách quan hơn mà ít thành kiến.
Những truyện ký trong Kinh Thánh kể lại cho chúng ta các sự việc đã xảy ra – nhưng không phải là bất cứ việc gì cũng được kể lại. Chủ đích của chúng là chứng minh rằng Đức Chúa Trời đang hành động trong cõi thọ tạo của Ngài và giữa những người thuộc về Ngài. Các câu chuyện trần thuật tôn vinh Ngài, giúp chúng ta hiểu và tán dương Ngài, và vẽ lên cho chúng ta thấy một bức tranh về sự quan phòng và bảo vệ của Ngài. Đồng thời, chúng cũng cung cấp nhiều thí dụ minh họa cho nhiều bài học quan trọng khác nữa cho đời sống chúng ta.
Tất cả các câu chuyện đều có một cốt chuyện và các nhân vật (hoặc là Đức Chúa Trời, loài người, động vật, thực vật, hoặc một điều gì khác). Tuy nhiên, các truyện ký trong Cựu Ước vốn có những tình tiết là thành phần của một câu chuyện tổng quát đặc biệt, và có một loạt nhân vật đặc biệt trong đó nhân vật đặc biệt nhất là chính Đức Chúa Trời.
Ba Cấp Độ của Truyện Ký
Khi đọc và nghiên cứu các truyện ký trong Cựu Ước, thật bổ ích nếu bạn hiểu rằng những câu chuyện này được kể lại theo ba mức độ. Cấp trên là mức độ của toàn bộ kế hoạch phổ quát của Đức Chúa Trời vận hành trong cõi thọ tạo của Ngài. Những khía cạnh then chốt của cốt truyện ở mức độ trên cùng này là chính công trình sáng tạo nguyên thủy, sự sa ngã của loài người, quyền lực và tính phổ quát của tội lỗi, nhu cầu cứu chuộc, sự nhập thể và hi sinh của Chúa Cứu Thế. Mức độ trên cùng này thường được gọi là “câu chuyện cứu chuộc” hay “lịch sử cứu chuộc.”
Các điểm then chốt của cấp giữa tập trung vào dân Y-sơ-ra-ên: việc kêu gọi Áp-ra-ham, việc thiết lập dòng dõi Áp-ra-ham qua các vị tộc trưởng, việc dân Y-sơ-ra-ên làm nô lệ tại Ai Cập, việc Đức Chúa Trời giải phóng họ khỏi vòng xiềng xích và sự chinh phục đất hứa là xứ Ca-na-an, việc dân Y-sơ-ra-ên vẫn thường phạm tội và càng tỏ ra bất trung, việc Đức Chúa Trời nhẫn nhục bảo vệ và nài nỉ họ, việc cuối cùng là vương quốc Y-sơ-ra-ên ở miền Bắc rồi vương quốc Giu-đa ở miền Nam đều bị tiêu diệt, và việc phục hồi địa vị cho dân thánh sau cuộc lưu đày.
Rồi cũng còn có cấp thấp nữa. Ở mức độ này có hằng trăm câu chuyện cá nhân cấu thành hai mức độ kia: chuyện kể các anh Giô-sép đã bán ông cho các thương nhân Ả-rập đang đi về Ai Cập, chuyện kể về Ghê-đê-ôn nghi ngờ Đức Chúa Trời và thử Ngài bằng cái lốt chiên, chuyện kể về tội ngoại tình của Đa-vít với Bát-sê-ba, v.v…
Cần cẩn thận lưu ý điểm này: mỗi câu chuyện kể về một cá nhân trong Cựu Ước (cấp thấp) ít ra cũng là một phần của câu chuyện lớn hơn của lịch sử dân Y-sơ-ra-ên giữa thế gian (cấp giữa) rồi lịch sử dân Y-sơ-ra-ên lại là một phần của câu chuyện tối hậu về công trình sáng tạo của Đức Chúa Trời và việc Ngài cứu chuộc tạo vật của Ngài (cấp trên). Câu chuyện tối hậu này ra ngoài Cựu Ước để sang Tân Ước. Bạn sẽ không thể hiểu trọn bất cứ câu chuyện cá nhân nào nếu chưa nhận ra ra rằng câu chuyện đó là thành phần của hai phần kia. Nhiều khi một câu chuyện được hình thành do một nhóm các câu chuyện ngắn cá nhân. Một câu chuyện như thế có thể được xem là “câu chuyện tập hợp.” Đối với việc thực hành, việc nhận ra các câu chuyện tập hợp hiện diện xuyên suốt Kinh Thánh không ảnh hưởng gì đến điều chúng tôi vừa nói về ba mức độ của các truyện ký.
Chúng tôi mong rằng hiểu được cấp bậc của các câu chuyện sẽ giúp bạn nhiều hơn trong việc ứng dụng các câu chuyện trong Cựu Ước cho cuộc đời bạn cũng như vào việc bạn phục vụ tha nhân. Lúc Chúa Giê-xu dạy rằng cả Kinh Thánh đều “… làm chứng về Ta” (GiGa 5:27-29), thì rõ ràng là Ngài không đề cập tất cả các khúc sách ngắn có tính cách cá nhân của Cựu Ước. Những khúc sách riêng lẽ ấy, kể cả các câu chuyện, đều đề cập đến Đấng Mết-si-a nếu không thì cũng được Tân Ước đồng nhất hóa như cái bóng, chỉ vào hình thật là Chúa Cứu Thế (đối chiếu ICo1Cr 10:4) vốn là một phần quan trọng của Cựu Ước, nhưng cũng mới chỉ là một phần nhỏ của sự mặc khải toàn diện. Tuy nhiên, Chúa Giê-xu muốn nói đến câu chuyện tối hậu, thuộc cấp trên, trong đó sự chuộc tội của Ngài là hành động trung tâm, và việc cả cõi thọ tạo phải đầu phục Ngài là tuyệt đỉnh của cốt truyện. Do đó Ngài mới dạy rằng toàn bộ Kinh Thánh đều làm chứng cho Ngài và tập trung vào quyền làm Chúa đầy tình yêu của Ngài.
Thế thì, chúng ta có những câu chuyện riêng rẽ (nhiều khi mang tính tập hợp) nằm trong một câu chuyện lớn và câu chuyện lớn nằm trong một câu chuyện tối hậu. Một số các câu chuyện tập hợp gồm nhiều những câu chuyện ngắn riêng rẽ. Đây là điều thường thấy trong tất cả các câu chuyện có các cốt truyện phụ, do đó chẳng có gì lạ. Trong Tân Ước, chúng ta có các câu chuyện riêng rẽ (sách Lu-ca, Công vụ) nằm trong toàn bộ câu chuyện tối hậu của Đức Chúa Trời được ghi lại. Cựu Ước cũng tương tự như vậy. Thí dụ, “câu chuyện Giô-sép” là câu chuyện tập hợp lớn (SaSt 37:1-50:26) bao gồm nhiều câu chuyện ngắn hơn về Giô-sép, như câu chuyện các giấc mơ đầu tiên của ông (SaSt 37:5-11), câu chuyện ông được cất nhắc rồi bị hạ bệ khi làm nô lệ cho Phô-ti-pha (SaSt 39:1-23), câu chuyện ông cho chôn cất Gia-cốp trong xứ Ca-na-an (SaSt 50:1-14) v.v… Thế nhưng, tất cả đều là thành phần của câu chuyện toàn thể Kinh Thánh.
Chẳng có gì sai trật khi nghiên cứu riêng rẽ từng câu chuyện nào đó, trái lại rất đáng khuyến khích. Nhưng để hiểu được ý nghĩa đầy đủ nhất, bạn phải nhìn câu chuyện riêng rẽ đó trong những bối cảnh rộng hơn.
Các Câu Chuyện Không Phải Là…
1. Các câu chuyện trong Cựu Ước không chỉ đơn giản là những câu chuyện về những người sống trong thời Cựu Ước. Trước tiên và quan trọng nhất, đó là những câu chuyện về Đức Chúa Trời đã làm gì cho và qua những người ấy. Ngược với các câu chuyện kể của loài người, Kinh Thánh bao gồm các câu chuyện về Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời là “người hùng” của câu chuyện – nếu câu chuyện đó nằm trong Kinh Thánh. Câu chuyện có đủ các nhân vật, các biến cố, cách triển khai, cốt truyện, cao trào, nhưng ẩn sau đó là Đức Chúa Trời, “nhân vật chính” hay nhân vật quyết định trong tất cả các câu chuyện.
2. Các câu chuyện của Cựu Ước không phải là những chuyện ngụ ngôn (allegories) hay các truyện tích đầy ẩn nghĩa. Tuy nhiên, có thể nhiều khía cạnh của những câu chuyện không phải là dễ hiểu. Cách thức Đức Chúa Trời hành động trong lịch sử, cách Ngài ảnh hưởng trên các hành động của loài người hoặc hoàn thành ý chỉ Ngài qua loài người (nhiều khi là trái với ý muốn của họ, thí dụ như SaSt 50:20) không phải bao giờ cũng dễ hiểu đối với chúng ta. Chúng ta thường không được cho biết chính xác tất cả những gì Đức Chúa Trời đã làm trong một hoàn cảnh nhất định nào đó khiến sự việc đã xảy ra như Cựu Ước đã thuật lại. Và cả khi chúng ta được cho biết điều Ngài đã làm, không phải lúc nào chúng ta cũng được cho biết Ngài đã làm việc đó như thế nào hoặc tại sao Ngài lại làm như thế.
Nói khác đi, các câu chuyện không trả lời cho tất cả các câu hỏi của chúng ta liên hệ đến một vấn đề nào đó. Các câu chuyện bị giới hạn trong phạm vi mục tiêu của chúng, và chỉ cho chúng ta một phần của bức tranh toàn diện của việc Đức Chúa Trời đang làm trong lịch sử mà thôi. Chúng ta phải tập hài lòng với sự hiểu biết hạn chế ấy, và kìm hãm tính hiếu kỳ của chúng ta đối với nhiều điểm, nếu không thì cuối cùng, chúng ta sẽ cố phỏng đoán quá nhiều để rồi chúng ta đưa vào các câu chuyện ấy nhiều điều vốn không có trong đó, biến chúng thành những ngụ ngôn (allegories) điều mà thật ra chỉ là những phần ký thuật lịch sử. Cũng như trường hợp các dụ ngôn (parables) các câu chuyện kể cũng có thể bị lạm dụng như thế (chương 8).
Đưa vào trong câu chuyện những điều vốn không có là khi người ta nhìn nhận các biến cố siêu nhiên trong các câu chuyện Kinh Thánh như là kết quả của sự can thiệp của những điều chẳng hạn như đĩa bay, hay những máy đo thời gian từ những thế kỷ tương lai tới thời đại chúng ta, hay những khám phá khoa học bí mật xa xưa mà con người không còn biết đến. Sự thật là đối với hầu hết những việc lạ lùng chính Kinh Thánh cũng không cho biết Đức Chúa Trời đã thực hiện thế nào. Nhưng tính hiếu kỳ và lòng mong muốn hiểu thấu điều mà Kinh Thánh không muốn cho chúng ta biết, tức là mong muốn biết chính xác các sự việc đã xảy ra như thế nào, có thể đưa một số người tới chỗ chấp nhận nhiều cách giải nghĩa vu vơ và phi lý. Bị lôi cuốn và kinh ngạc bởi khoa học giả hiệu, nhiều người bị dẫn dụ tới chỗ đưa ra những lời giải thích ngụy tạo về các biến cố lạ lùng đã xảy ra trong Kinh Thánh. Đức Chúa Trời đã không cho chúng ta biết cách thức mà Ngài đã làm tất cả công việc của Ngài. Ham muốn hiểu thấu toàn thể tiến trình có thể tạo ra những lời giải thích hết sức hoang đường và không phù hợp với các câu chuyện của Kinh Thánh mà thật ra chẳng phải là giải nghĩa gì cả.
3. Các câu chuyện trong Cựu Ước không phải lúc nào cũng dạy dỗ cách trực tiếp. Chúng nhấn mạnh bản tánh và sự mặc khải của Đức Chúa Trời cách đặc biệt mà những phần luật pháp hoặc giáo lý của Kinh Thánh không thể làm được, bằng cách cho phép chúng ta sống qua nhiều biến cố và từng trải, chứ không phải chỉ học về các vấn đề gắn liền với các biến cố và từng trải ấy. Những câu nói hiện đại quen thuộc như “Đừng bỏ khi chưa thử” hoặc “Muốn hiểu thấu bạn phải kinh nghiệm” không phải bao giờ cũng đúng nhưng cũng chứa đựng một phần của chân lý. Nhiều khi kiến thức sẽ đem lại ích lợi hơn và ảnh hưởng đến nếp sống lâu dài hơn khi đó vốn là kết quả của việc dấn thân vào một việc gì đó. Nếu bạn theo sát các câu chuyện Cựu Ước, khi đọc bất luận một câu chuyện nào tự nhiên bạn sẽ bị lôi kéo vào đó, cho dù những nhân vật trong câu chuyện và hoàn cảnh của họ khác với bạn như thế nào đi nữa. Như thế, các câu chuyện sẽ cho bạn một loại kiến thức “trao tận tay” về công việc của Đức Chúa Trời trong thế giới này, và tuy kiến thức đó chỉ là gián tiếp chứ không phải trực tiếp, nó vẫn là kiến thức thực tế có thể giúp hình thành hành vi của bạn.
Nếu bạn là một Cơ Đốc nhân, Cựu Ước là bộ lịch sử thuộc linh của bạn. Những lời hứa và sự kêu gọi của Đức Chúa Trời dành cho dân Y-sơ-ra-ên là những lời hứa và sự kêu gọi lịch sử của bạn (GaGl 3:29). Theo ý nghĩa tốt nhất, hữu ích và thực tiễn nhất, thì Đức Chúa Trời cho phép bạn theo dõi các biến cố mà Ngài đã làm thời xưa, bằng cách linh cảm những người Ngài chọn ghi chép chúng lại theo cách Ngài muốn.
Tuy các câu chuyện của Cựu Ước không nhất thiết phải trực tiếp dạy dỗ nhưng thường minh họa cho những điều được dạy dỗ trực tiếp và rõ ràng ở những chỗ khác. Điều này tiêu biểu cho một loại dạy dỗ mặc nhiên (implicit) mà khi kết hợp với những lời dạy dỗ minh nhiên (explicit) tương ứng của Kinh Thánh sẽ mang lại hiệu quả rất cao trong việc làm nẩy sinh loại kinh nghiệm học hỏi mà Đức Thánh Linh có thể sử dụng một cách tích cực. Thí dụ như trong câu chuyện về tội tà dâm của Đa-vít với Bát-sê-ba (IISa 2Sm 11:1-27) bạn sẽ chẳng bao giờ thấy có câu nào như “khi phạm tội tà dâm như thế, là Đa-vít đã hành động sai.” Bạn phải biết rằng tà dâm là sai trái, vì điều đó đã được dạy dỗ rõ ràng, minh nhiên trong Kinh Thánh rồi (XuXh 20:14). Câu chuyện minh họa thế nào tội lỗi đã làm tổn hại đến đời sống cá nhân cũng như khả năng cai trị của nhà vua. Câu chuyện không dạy dỗ một cách hệ thống về tội tà dâm và không thể được dùng như một cơ sở duy nhất cho một lời dạy dỗ như thế. Nhưng với tính cách là một thí dụ minh họa cho các hậu quả của tội tà dâm trong một trường hợp cá biệt, câu chuyện truyền đạt một thông điệp đầy uy quyền và tự nó ghi khắc vào tâm trí người cẩn thận đọc đến. Đây là điều mà một cách dạy trực tiếp và hệ thống có thể không làm được.
4. Mỗi một câu chuyện riêng rẽ nằm trong một câu chuyện không nhất thiết phải có một bài học đạo đức riêng. Ta không thể lý giải các câu chuyện theo cách chẻ sợi tóc làm tư, làm như mỗi câu, mỗi biến cố, mỗi phần mô tả đều có thể lý giải riêng rẽ, độc lập đối với các phần khác, và đều có một bức thông điệp đặc biệt cho người đọc. Thật ra, ngay cả trong những câu chuyện thần tiên dài, tất cả các thành phần tạo nên câu chuyện có thể hiệp lại để tạo ấn tượng trên người đọc về một chủ điểm mà thôi. Có một biến chuyển tổng quát dẫn đến câu chuyện, tức là một loại thượng tầng cơ sở để tạo thành một chủ điểm, thường thường là một chủ điểm duy nhất.
Về phương diện này thì các truyện ký giống với các dụ ngôn (parables, xem chương 8) trong đó toàn thể câu chuyện truyền đạt sứ điệp, chứ không phải mỗi phần riêng rẽ. Sức tác động, sức ảnh hưởng, sức thuyết phục – tất cả đều do toàn bộ diễn biến của các biến cố liên hệ. Nhiều yếu tố riêng rẽ kết hợp lại để tạo thành một câu chuyện qua đó Đức Chúa Trời mặc khải. Cố tìm ra một ý nghĩa cho từng dữ kiện nhỏ nhặt, hoặc từng biến cố riêng lẻ trong câu chuyện sẽ không đi đến đâu. Bạn phải thẩm định câu chuyện như một toàn thể chứ không nên phân chia từng phần nhỏ.
Các Nguyên Tắc Giải Nghĩa Truyện Ký
Để minh họa cho những điều vừa thảo luận ở trên, chúng tôi chọn hai câu chuyện quan trọng trong Cựu Ước để phân tích trong chương này. Nhưng trước hết, mười nguyên tắc sau sẽ giúp bạn tránh được các sai lầm khi giải nghĩa hai câu chuyện này hoặc những câu chuyện khác.
1. Một câu chuyện trong Cựu Ước thường không trực tiếp truyền dạy một giáo lý.
2. Một câu chuyện trong Cựu Ước thường minh họa cho một giáo lý hay nhiều giáo lý đã được truyền dạy rõ ràng, đầy đủ ở chỗ khác.
3. Các câu chuyện ghi lại những gì đã xảy ra – không nhất thiết là chuyện đáng lẽ đã phải xảy ra hay phải luôn luôn xảy ra. Do đó, không phải mỗi câu chuyện đều có một ý nghĩa đạo đức riêng.
4. Hành động của các nhân vật trong câu chuyện không nhất thiết đều là gương tốt cho chúng ta. Thường thường là ngược lại.
5. Hầu hết nhân vật trong các câu chuyện của Cựu Ước đều chưa đạt được mức trọn vẹn, và các hành động của họ cũng vậy.
6. Không phải lúc nào phần cuối câu chuyện đều cho chúng ta biết việc đã xảy ra đó là tốt hay xấu. Chúng ta phải có khả năng suy xét dựa trên những gì Đức Chúa Trời đã dạy dỗ chúng ta cách trực tiếp và rõ ràng ở chỗ khác trong Kinh Thánh.
7. Tất cả các câu chuyện đều mang tính chọn lọc và phiến diện. Không phải tất cả các chi tiết thích hợp đều luôn luôn được cung cấp đầy đủ (đối chiếu GiGa 21:25). Những gì xuất hiện trong câu chuyện là tất cả những gì mà tác giả được linh cảm nghĩ là quan trọng mà chúng ta cần biết.
8. Các câu chuyện không được viết ra để giải đáp cho mọi thắc mắc về thần học của chúng ta. Chúng có những mục đích cụ thể, đặc biệt và nhằm giải quyết một số vấn đề, bỏ qua các vấn đề được giải quyết ở những chỗ khác, theo nhiều cách khác.
9. Các câu chuyện có thể dạy dỗ một cách minh nhiên (bằng cách nhấn mạnh rõ ràng một điều gì có) hoặc mặc nhiên (bằng cách ngụ ý nói rõ ràng một điều gì đó mà không thật sự không nêu ra).
10. Cuối cùng, Đức Chúa Trời là nhân vật chủ động tất cả các câu chuyện trong Kinh Thánh.
Mẫu Giải Nghĩa Truyện Ký
Câu Chuyện Giô-sép
Câu chuyện Giô-sép được tường thuật trong SaSt 37:1-36; 39:1-50:26. Khi đọc qua các chương ấy bạn sẽ thấy Giô-sép là nhân vật chính, xét về mặt con người, trong hầu hết các tình tiết. Ông thật sự nổi bật trong cả câu chuyện.
Chúng ta đọc thấy Giô-sép có vẻ là loại người kiêu kỳ, hay phê phán (37:1-36), có lẽ do ông được cha mình nuông chiều (37:3). Việc Giô-sép luôn miệng kể lại các giấc mơ kiêu căng đầy tự tôn của mình đã chẳng giúp gì được cho hoàn cảnh của ông trong gia đình (37:10, 11). Các anh Giô-sép đã bán ông cho người ta làm nô lệ, và lừa dối với cha là Gia-cốp rằng Giô-sép đã chết rồi. Bị bán sang Ai Cập như một nô lệ, Giô-sép đã trở thành người quản lý rất thành công của Phô-ti-pha (39:1-23). Tại sao thế? Phải chăng đó là nhờ các tài năng quản trị bẩm sinh của ông? Thật khó có thể nói như vậy. Kinh Thánh cho thấy rõ lý do: “Giô-sép (được)…Đức Giê-hô-va phù hộ…Đức Giê-hô-va phù hộ chàng và xui cho mọi việc chi chàng lãnh làm nơi tay đều được thạnh vượng…Đức Giê-hô-va vì Giô-sép ban phước cho nhà người; sự ban phước của Đức Giê-hô-va bủa khắp mọi vật của người làm chủ” (SaSt 39:2-5 RSV). Cho dù Giô-sép có tài quản trị thì rõ ràng nó chỉ giữ vai trò thứ yếu trong việc Đức Chúa Trời can thiệp vào cuộc đời ông. Dù bị bỏ tù một cách bất công, Giô-sép vẫn vươn lên được địa vị cai ngục. Tại sao thế? Một lần nữa, Kinh Thánh lại khẳng địng chắc chắn: “Đức Giê-hô-va phù hộ Giô-sép và tỏ lòng nhân từ cùng chàng, làm cho được ơn trước mặt chủ ngục” (39:21; đ/c câu 33).
Người kể chuyện được linh cảm đã không để người ta có chút nghi ngờ người anh hùng hoặc bài học đạo đức của câu chuyện. Đức Chúa Trời là người chủ động và bài học đạo đức là Đức Chúa Trời đã ở cùng Giô-sép. Nếu bạn muốn học hỏi từ câu chuyện liên hệ đến Giô-sép, và cố tìm một người chủ động khác ngoài Đức Chúa Trời, thì người đó sẽ là ai? Phải chăng đó là Gia-cốp, vốn nuông chìu Giô-sép hơn các con cái khác của mình? Phải chăng đó là Phô-ti-pha hay vợ ông ta, cả hai đều đối xử bất công với Giô-sép? Phải chăng đó là người chủ ngục không được nêu tên? Phải chăng đó là chính Giô-sép, chàng thanh niên quá tự tin, vị kỷ, dường như đã tự chuốc lấy họa vào thân một cách hết sức dễ dàng? Nếu bạn chọn bất cứ người nào trong số các nhân vật vừa kể trên, thì chắc chắn bạn đã không tìm được điều mà câu chuyện muốn nhấn mạnh, và như thế không còn chú ý đến quyền tể trị, hướng dẫn và điều động các biến cố của Đức Chúa Trời.
Còn về bài học đạo đức của câu chuyện thì sao? Phải chăng bạn sẽ sai lầm như nhiều nhà truyền đạo hoặc giáo sư, là cố tìm một bài học cho đời sống tiềm tàng trong từng biến cố của cuộc đời Giô-sép? Nếu thế thì có lẽ bạn cũng kết luận câu chuyện dạy rằng “Đừng kể các giấc mơ của bạn cho ai nghe cả, kẻo e bạn sẽ vì đó mà bị rắc rối to đấy!” hay “Thậm chí các nô lệ cũng có thể trở thành người cầm đầu, nếu họ chịu quan tâm các tài năng quản trị của mình” hoặc “Bạn sẽ khỏi phải vào tù nếu có chút ít kinh nghiệm làm ăn trước khi bị bắt” hay “Người ngoại quốc thì dễ được thăng quan tiến chức hơn dân bản xứ.”
Nói cách khác, nếu bạn tìm cách bắt chước con người hoặc hành động nào của Giô-sép mà các Cơ Đốc nhân ngày nay cho rằng làm như thế để được phước, thì bạn sẽ chẳng bao giờ tìm được trong câu chuyện này đâu. Câu chuyện muốn nói với bạn điều Đức Chúa Trời đã làm với một ứng viên hầu như không thể thành công. Câu chuyện không hàm chứa bất kỳ một quy luật nào để trở thành người dẫn đầu trong công việc kinh doanh hoặc trong đời sống nói chung. Giô-sép đã gặp chuyện chẳng may này đến chuyện tệ hại khác, và đã phải ngồi tù rất nhiều năm trước khi chính Đức Chúa Trời (chứ không phải Giô-sép) sắp xếp cho ông được tha ra.
Việc Giô-sép được ra tù nhờ tài giải mộng mà Đức Chúa Trời đã ban cho ông (SaSt 40:1-41:57), việc ông được đặt vào chức vị có quyền lực cao và cơ hội để ông giúp đỡ gia đình trong nạn đói (SaSt 41:1-50), cũng như nhiều chi tiết khác nữa của các câu chuyện nhỏ hơn hình thành câu chuyện Giô-sép, thật ra chẳng cho thấy điều gì bẩm sinh nơi Giô-sép đáng nêu gương trong các hành động của ông cả. Bạn sẽ phí công vô ích nếu muốn tìm một bài học luân lý nào khác hơn là bài học mà chính Kinh Thánh cung cấp: “Đức Chúa Trời đã ở cùng Giô-sép.” Toàn thể quá trình bị thất bại rồi được thăng tiến để nắm được quyền lực của Giô-sép, đều là việc làm của Đức Chúa Trời. Cả đến ác ý của các anh Giô-sép đối với ông cũng đều được Đức Chúa Trời sử dụng cho chiến lược của Ngài. Như chính Giô-sép đã bảo với các anh mình trong SaSt 50:19-20: “Giô-sép đáp rằng: Các anh đừng sợ chi, vì tôi há thay mặt Đức Chúa Trời sao? Các anh toan hại tôi, nhưng Đức Chúa Trời lại toan làm điều ích cho tôi, hầu cho cứu sự sống cho nhiều người, y như đã xảy đến ngày nay, và giữ gìn sự sống của dân sự đông đảo.”
Cả chuỗi dài các biến cố và các câu chuyện nhỏ hơn tập hợp thành câu chuyện Giô-sép đều là một phần của một câu chuyện lớn hơn, đó là chương trình của Đức Chúa Trời cho Y-sơ-ra-ên với tư cách một dân tộc, và để bảo tồn các dân Ca-na-an, Ai Cập và nhiều dân tộc khác đồng thời suốt thời gian bị nạn đói này. Ai Cập là nơi Đức Chúa Trời gây dựng và gia tăng dân sự Ngài, chuẩn bị họ cho cuộc Xuất Ai Cập và sự chinh phục xứ Ca-na-an mà chính Ngài sẽ ban cho họ như Ngài đã hứa với Áp-ra-ham.
Nếp sống, các đức tính cá nhân, hoặc các hành động của Giô-sép chẳng giúp chúng ta được gì nếu muốn rút ra từ đó các nguyên tắc luân lý đạo đức tổng quát. Nếu bạn tưởng mình đã tìm được điều gì, tức là bạn đã tìm thấy điều bạn muốn tìm thấy trong đoạn kinh văn, chứ không phải là bạn giải nghĩa đoạn kinh văn.
Cuối cùng thì chính Giô-sép được ban cho khả năng để nhận biết rằng Đức Chúa Trời đã điều khiển tất cả các biến cố trong câu chuyện của ông, nhằm một chủ đích quan trọng hơn. Vào cuối đời mình, ông đã bảo với các anh em mình: “Em sẽ chết, nhưng Đức Chúa Trời sẽ đến viếng các anh em thật; đem các anh em về xứ mà Ngài đã thề hứa cùng Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp.”
Trọng tâm chính là Đức Chúa Trời. Ngài có quyền hoàn tất những gì Ngài muốn. Đức Chúa Trời đã sử dụng những phương tiện xem ra rất vô lý như Giô-sép, gia đình ông, và Pha-ra-ôn để bảo tồn mạng sống nhiều người và bắt đầu tạo lập cho Ngài một dân tộc đặc biệt. Đây chính là chỗ để chúng ta tìm thấy bài học đạo đức của câu chuyện, tập trung vào ân điển và sự quan phòng của Đức Chúa Trời, và đưa chúng ta đến chỗ biết tôn trọng đường lối của Ngài và trông cậy vào sự cung ứng của Ngài.
Câu Chuyện Ru-tơ
Sách Ru-tơ vừa ngắn gọn vừa độc lập, có cốt truyện dễ hiểu và tìm hiểu các nhân vật không khó. Vì thế chúng ta có thể dùng câu chuyện này làm mẫu để minh họa các nguyên tắc chúng ta vừa học ở trên, đặc biệt nhấn mạnh đến điểm số 9 trong bảng liệt kê các nguyên tắc. Ở đây, chúng tôi muốn giúp bạn thấy rằng lời dạy của Đức Thánh Linh qua một câu chuyện có thể là minh nhiên hoặc mặc nhiên. Lời dạy minh nhiên (rõ ràng) là khi người thuật chuyện được linh cảm thật sự nói (“Đức Chúa Trời phù hộ cho Giô-sép”). Lời dạy dỗ mặc nhiên (ẩn ý) là những gì đã được trình bày rõ ràng trong câu chuyện, nhưng lại không được nói ra bằng lời. Bạn có thể thấy những điều đó một cách tiềm ẩn trong câu chuyện, thay vì được đọc ngay trong trang sách.
Sự dạy dỗ minh nhiên có thể nhận biết được cách dễ dàng, nhưng sự dạy dỗ mặc nhiên có thể khó hơn. Nó đòi hỏi phải có khả năng, chịu khó làm việc, cẩn thận và vừa cầu nguyện, vừa tôn trọng sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh là Đấng linh cảm bản văn. Dù sao, bạn cũng cần phải đọc được những điều ngoài câu chuyện hơn là đem vào trong câu chuyện.
Câu chuyện của Ru-tơ có thể tóm tắt như sau: Quả phụ Ru-tơ, một người Mô-áp di cư từ xứ Mô-áp đến Bết-lê-hem cùng với mẹ chồng là Na-ô-mi, cũng là một quả phụ (Ru R 1:1-22). Ru-tơ đi mót lúa trong đồng lúa của Bô-ô. Bô-ô kết bạn với Ru-tơ vì được nghe về lòng hiếu thảo và cách đối xử tử tế của nàng với Na-ô-mi, vốn là người bà con với ông ta (Ru R 2:1-23). Theo sự gợi ý của Na-ô-mi, Ru-tơ cho Bô-ô biết là nàng yêu ông và mong ông sẽ cưới nàng làm vợ (Ru R 3:1-18). Bô-ô thực hiện mọi biện pháp cần thiết về mặt pháp lý để cưới Ru-tơ và bảo vệ các quyền lợi liên hệ đến tài sản của người chồng đã quá cố của nàng là Mạc-lôn. Sự ra đời của đứa con trai đầu tiên là Ô-bết của Ru-tơ và Bô-ô, là một an ủi lớn lao cho Na-ô-mi. Cuối cùng thì cháu nội của Ô-bết sẽ là vua Đa-vít (Ru R 4:1-22).
Nếu bạn chưa quen với câu chuyện Ru-tơ, hãy đọc qua cách ấy ít nhất là hai lần. Rồi trở lại và ghi ra các chú thích riêng biệt về những điểm tiềm ẩn (mặc nhiên) trong câu chuyện như sau:
1. Câu chuyện cho chúng ta biết Ru-tơ cải đạo, đặt đức tin vào Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên. Câu chuyện cho chúng ta biết được điều này qua câu nói của Ru-tơ với Na-ô-mi “Dân sự của mẹ tức là dân sự của tôi; Đức Chúa Trời của mẹ tức là Đức Chúa Trời của tôi” (1:17), thay vì nói thẳng với chúng ta rằng “Ru-tơ đã ăn năn quy đạo.” Chúng ta nhận ra điều đó vì Ru-tơ nhận Đức Giê-hô-va làm Đức Chúa Trời mình tức là nàng đã ăn năn quy đạo. Câu chuyện cũng mặc nhiên xác nhận việc ăn năn quy đạo của Ru-tơ là chân thành, chứ không phải chỉ bằng đầu môi chót lưỡi mà thôi, bằng cách ghi lại câu nói này của Ru-tơ: “Ví bằng có sự chi…nguyện Đức Giê-hô-va giáng họa cho tôi” (1:17). Mấy lời này ngụ ý rõ ràng, tuy không nói thẳng ra, rằng Ru-tơ, một người Mô-áp trước kia từng thờ lạy các thần của dân Mô-áp, giờ đây đã tin và sống theo các chuẩn mực của Giê-hô-va tức là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Chẳng có gì để nghi ngờ khi Kinh Thánh cho chúng ta biết Ru-tơ đã ăn năn quy đạo, quay lại thờ phượng Đức Chúa Trời chân thần, tuy điều đó không hề được đề cập rõ ra ở bất cứ chỗ nào cả.
2. Câu chuyện mặc nhiên kể với chúng ta rằng Bô-ô là một người Y-sơ-ra-ên công chính, giữ Luật Môi-se, tuy nhiều người Y-sơ-ra-ên đã không làm như thế. Điều đó được nói ở đâu? Hãy đọc thật cẩn thận ở các phần 2:3-13, 22, 3:10-12; 4:9-10. Mấy phần này trong câu chuyện nêu rõ rằng căn cứ vào cách ăn nói của ông, ta thấy bản thân ông vốn trung tín phục dưới uy quyền của Giê-hô-va, ở chỗ ông vẫn tuân thủ điều luật về mót lúa đã được ban hành trong LeLv 19:9-10 (Ru-tơ hội đủ cả hai loại điều kiện mà điều luật ấy đề ra – nàng vốn là một người nghèo “đồng thời” cũng là kẻ khách (người ngoại quốc); ông cũng tuân thủ điều luật về việc chuộc lại sản nghiệp đã được ban hành ở LeLv 25:23-24, mà không phải là toàn thể người Y-sơ-ra-ên đều trung tín vâng giữ luật pháp như thế. Dĩ nhiên, đi mót lúa trong các đồng lúa của những người không tuân thủ các điều luật bó buộc liên hệ là điều nguy hiểm (2:22).
Một lần nữa, câu chuyện mặc nhiên cho chúng ta khá nhiều thông tin quan trọng. Phần thông tin này có giá trị giúp chúng ta theo dõi câu chuyện để giải thích nó. Thế nhưng, đây là những thông tin không được cung cấp cho chúng ta một cách minh nhiên.
3. Câu chuyện mặc nhiên cho chúng ta biết rằng đây là một phần bối cảnh của tổ tiên vua Đa-vít – do đó, khi mở rộng ra, thì liên hệ đến tổ tiên của Chúa Giê-xu nữa. Hãy đọc 4:17-21, bảng gia phả ngắn ngủi trong câu 17 và bảng gia phả đầy đủ hơn trong mấy câu 18-21 đều kết thúc bằng tên Đa-vít. Rõ ràng nhân vật Đa-vít là tiêu điểm và điểm kết thúc của câu chuyện này. Căn cứ vào nhiều bảng gia phả khác trong Kinh Thánh, chúng ta biết rằng Đa-vít là vị quân vương vĩ đại đầu tiên của dân Y-sơ-ra-ên. Căn cứ vào các bảng gia phả trong Tân Ước, chúng ta cũng biết rằng về phương diện con người Chúa Giê-xu vốn là hậu duệ của Đa-vít. Thế thì Ru-tơ là bà cố nội của Đa-vít, và là một tổ mẫu của Chúa Giê-xu! Đây là một phần quan trọng của lời dạy dỗ trong cả câu chuyện này. Câu chuyện không chỉ liên hệ với Ru-tơ và Bô-ô vì cớ lòng trung tín của họ đối với Đức Giê-hô-va, mà còn vì cớ địa vị của họ trong lịch sử dân Y-sơ-ra-ên. Các nhân vật này không thể nào biết được điều đó, nhưng họ được Chúa sử dụng để lập làm tổ tiên của Đa-vít và “con trai Đa-vít,” tức là Chúa Giê-xu.
4. Câu chuyện mặc nhiên cho chúng ta biết rằng Bết-lê-hem là một thị trấn đặc biệt dưới thời Các Quan Xét vì sự trung tín của cư dân tại đó. Nhận ra điểm mặc nhiên này của câu chuyện không phải là dễ dàng hay tự động nhưng đòi hỏi phải đọc thật kỹ cả câu chuyện, đặc biệt chú ý vào các lời nói và hành động của tất cả các nhân vật trong câu chuyện. Nó cũng đòi hỏi phải có kiến thức chung về những địa phương khác của xứ Y-sơ-ra-ên trong thời đó so với những gì đặc biệt của xứ Bết-lê-hem. Muốn có kiến thức về Bết-lê-hem phải quen thuộc với các biến cố và các chủ đề của sách Các Quan Xét, vì sách Ru-tơ được người thuật chuyện nối liền trực tiếp với thời kỳ đó (Ru R 1:1). Nếu bạn đã có cơ hội đọc kỹ sách Các Quan Xét, bạn sẽ ghi nhận rằng thời kỳ các quan xét (khoảng 1240-1030 T.C.) nói chung có dấu ấn rõ rệt của các tập tục như thờ thần tượng lan tràn, hòa đồng tôn giáo (pha lẫn nhiều nét đặc trưng của ngoại đạo với đạo thật của dân Y-sơ-ra-ên), xã hội bất công, xáo trộn, thù địch giữa các chi phái với nhau, dâm loạn, và nhiều dấu chỉ khác nữa về sự bất trung với Chúa. Bức tranh được vẽ ra cho chúng ta trong sách Các Quan Xét khó có thể là một bức tranh đẹp của hạnh phúc, tuy có những trường hợp cá biệt vì lòng nhân từ thương xót của Đức Chúa Trời, Ngài đã ban nhiều lợi ích cho dân Y-sơ-ra-ên hoặc cho các chi phái trong dân Y-sơ-ra-ên, cho dầu tất cả đều chống nghịch với Ngài.
Điều gì trong sách Ru-tơ cho chúng ta biết Bết-lê-hem là một ngoại lệ so với bức tranh bao quát về sự bất trung? Thực tế là tất cả mọi sự, ngoại trừ 2:2 hàm ý rằng không phải tất cả dân Bết-lê-hem đều giữ luật lệ liên hệ đến vấn đề mót lúa mà đáng lẽ họ phải tuân thủ. Nếu không có như thế thì bức tranh chắc sẽ rất đồng nhất. Lời nói của các nhân vật cũng cho thấy dân cư của thị trấn này đã bày tỏ lòng đầu phục Đức Giê-hô-va của họ.
Nên nhớ rằng tất cả các nhân vật được đề cập trong câu chuyện, ngoại trừ Ru-tơ và cô em dâu của nàng là Ọt-ba, đều là công dân Bết-lê-hem. Hãy xét đến Na-ô-mi, dù là trong những thời kỳ gặp nhiều cay đắng (1:8-9; 13:20-21) hay trong những lúc được vui vẻ hạnh phúc (1:6; 2:19-20) bà đều nhìn nhận và đầu phục ý chỉ Đức Giê-hô-va. Hơn nữa, Bô-ô cũng trước sau như một, và đã tự chứng tỏ bằng lời nói rằng mình là một người thờ phượng và noi theo Đức Giê-hô-va (2:11-12; 3:10,13) còn các hành động của ông từ đầu chí cuối đều chứng thực cho những lời nói đó.
Ngay đến cách người ta chào hỏi nhau cũng cho thấy họ vốn có ý thức về việc đầu phục Đức Giê-hô-va ở mức độ cao (2:4). Cũng thế, các trưởng lão của thị trấn, trong lời chúc phước cho hôn lễ và cho con cháu họ (4:11, 12) và các phụ nữ trong thị trấn khi chúc phước cho Na-ô-mi (4:14) đều chứng tỏ đức tin của họ. Việc họ thừa nhận Ru-tơ, một phụ nữ người Mô-áp ăn năn quy đạo đã thêm một bằng chứng mặc nhiên về đức tin của họ.
Cuối cùng, tác giả được linh cảm đã gán những biến cố đầy ý nghĩa cho Đức Giê-hô-va (1:6; 4:13) – mặc dầu chúng ta không thể biết chắc tác giả có phải là dân Bết-lê-hem hay không, và cũng không thể không nghĩ rằng tác giả đã không thuộc vào đám người bất trung của thời kỳ ấy. Vấn đề là một người không thể nào đọc câu chuyện thật kỹ (đồng thời đối chiếu sách này với sách Các Quan Xét) mà lại không thấy rất nhiều lần rằng thị trấn Bết-lê-hem vốn đặc biệt như thế nào! Không chỗ nào trong câu chuyện thật sự nói rằng “Bết-lê-hem là một thị trấn nổi tiếng là ngoan đạo vào thời kỳ ấy.” nhưng đó lại là điều mà câu chuyện đã nói với chúng ta một cách mạnh mẽ và đầy thuyết phục mà cả những lời nói thẳng ra cũng không hẳn có được hiệu quả như thế.
Chúng tôi mong rằng các thí dụ trên đây sẽ cho ta thấy rằng cẩn thận chú ý đến các chi tiết và chuyển biến toàn diện của một câu chuyện và văn mạch của nó là điều cần thiết nếu như ta muốn nắm được đầy đủ ý nghĩa của nó. Trên mọi phương diện, điều mặc nhiên cũng có ý nghĩa như điều minh nhiên.
Cảnh Giác
Mặc nhiên không có nghĩa là bí mật. Bạn sẽ gặp đủ thứ rắc rối nếu bạn cố tìm một ý nghĩa nào đó trong một bản văn mà bạn nghĩ rằng Đức Chúa Trời đã “giấu” trong câu chuyện. Đây hoàn toàn không phải là điều mà chữ mặc nhiên muốn nói. Mặc nhiên có nghĩa là sứ điệp có thể được hiểu nhờ những gì đã được nói ra, tuy rằng sứ điệp đó không được phát biểu rõ bằng lời. Nhiệm vụ của bạn không phải là lục lạo để tìm những điều mà mọi người không thể hiểu được. Nhiệm vụ của bạn là ghi ra tất cả những gì mà câu chuyện thật sự nói với bạn – trực tiếp hoặc gián tiếp, nhưng không bao giờ nói cách thần bí hay riêng tư. Nếu bạn không thể xác quyết và diễn tả cho những người khác một điều gì đó được dạy một cách mặc nhiên để họ hiểu được và nắm vững thì có lẽ chính bạn cũng đã đọc và hiểu sai đoạn kinh văn rồi. Điều Thánh Linh linh cảm là để lợi ích cho mọi tín hữu. Hãy nhận biết và khai triển điều dễ nhận thấy trong câu chuyện, chứ đừng đặt ta một câu chuyện mới (IIPhi 2Pr 2:3)!
Vài Điều Lưu Ý Cuối Cùng
Tại sao lắm khi người ta tìm thấy trong các câu chuyện Kinh Thánh nhiều điều mà thật ra vốn không có trong đó – tức khi đọc, họ đưa vào trong Kinh Thánh các khái niệm của riêng họ, chứ không phải là tìm ra trong đó những điều mà Đức Chúa Trời muốn cho họ phải biết? Có ba lý do chính. Một là họ khao khát muốn tìm một số thông tin họ nghĩ sẽ có giá trị cho cá nhân có thể ứng dụng cho hoàn cảnh riêng của mình. Hai là họ không đủ kiên nhẫn, muốn được trả lời ngay tức khắc, từ chính sách này, chương này. Ba là, họ trông mong sai lầm rằng mọi điều trong Kinh Thánh đều có thể ứng dụng trực tiếp như lời dạy cho chính đời sống của cá nhân họ. Kinh Thánh là một nguồn tài nguyên lớn lao, chứa đựng tất cả những gì một Cơ Đốc nhân cần theo sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời cho đời sống. Nhưng không phải lúc nào Kinh Thánh cũng chứa đựng những câu trả lời vừa cụ thể vừa riêng tư như một số người mong muốn, và không phải chương nào của mỗi sách trong Kinh Thánh cũng chứa đựng tất cả mọi thông tin! Vì quá sốt ruột muốn tìm cho ra ý chỉ của Đức Chúa Trời từ toàn bộ Kinh Thánh, nên người ta đã sai lầm – họ tự cho phép mình cượng giải những phần Kinh Thánh riêng rẽ.
Để bạn có thể tránh được khuynh hướng này, chúng tôi xin liệt kê ra đây tám sai lầm trong số các sai lầm phổ biến nhất trong công tác giải nghĩa mà người ta vấp phải khi cố đi tìm lời giải đáp từ các phần của Kinh Thánh. Mặc dầu tất cả những điều sau đây áp dụng cho truyện ký nhưng cũng có thể được áp dụng cho các loại văn thể khác.
1. Hiểu theo nghĩa bóng (Allegorizing): Thay vì tập trung vào ý nghĩa rõ ràng, người ta bỏ mặc bản văn để chỉ tìm xem nó có ẩn ý gì nằm ngoài bản văn. Trong Kinh Thánh có nhiều phần phải hiểu theo nghĩa bóng, nghĩa ẩn dụ (thí dụ Exe Ed 23:1-49 hoặc nhiều phần trong sách Khải Thị) nhưng không một ẩn dụ (allegory) Kinh Thánh nào lại là một câu chuyện đơn giản.
2. Đặt đoạn văn nằm ngoài bối cảnh và văn mạch của nó (Decontextualizing): Không lưu ý đến bối cảnh lịch sử và văn mạch toàn diện – thường là đối với câu chuyện riêng rẽ – nhưng chỉ tập trung chú ý vào các đơn vị nhỏ là không nắm được các nguyên tắc giải nghĩa. Chỉ cần đi ra ngoài bối cảnh vừa đủ xa là bạn sẽ có thể gán cho bất cứ phần nào của Kinh Thánh nói bất cứ điều gì bạn muốn.
3. Chọn lọc (selectivity). Điều này cũng giống như vượt ra ngoài bối cảnh và văn mạch. Nó bao gồm việc góp nhặt, chọn lựa những chữ, những câu cụ thể và chú ý vào đó mà bỏ qua toàn cảnh của khúc sách cần nghiên cứu. Thay vì cân đối các phần và toàn bộ đoạn kinh văn, bạn đã bỏ qua một số phần nào đó cũng như toàn cảnh.
4. Kết hợp sai lầm (false combination): Đường hướng này kết hợp các yếu tố nằm rải rác đây đó trong khúc sách, rồi đưa ra một luận điểm từ sự kết hợp đó, tuy bản thân các yếu tố ấy không hề có liên hệ trực tiếp với nhau trong khúc sách ấy. Một thí dụ về cách giải nghĩa sai lầm này là cho rằng rằng các kẻ thù thật sự của chúng ta là trong Hội Thánh chứ không phải ngoài Hội Thánh, vì trong Thi Tv 23:1-6 Đa-vít nói rằng ông sẽ ở mãi mãi trong nhà của Đức Chúa Trời, mà Đức Chúa Trời thì đã dọn bàn cho ông trước mặt các kẻ thù của ông (Do đó, các kẻ thù phải cùng ở chung trong nhà của Đức Chúa Trời với Đa-vít, nếu không làm sao họ có thể ở trước mặt ông được).
5. Tái định nghĩa (redefinition). Khi ý nghĩa rõ ràng của một đoạn kinh văn khiến người ta cảm thấy lạt lẽo, không tạo ngay cho người ta sự thích thú thuộc linh, hoặc nói một điều gì đó mà người ta không muốn nghe thì người ta thường cố tìm cách tái định nghĩa để nó có ý nghĩa khác đi. Thí dụ, họ lấy câu nói của Chúa Giê-xu: “Khốn nạn cho các ngươi là người giàu có…” và “Khốn nạn cho các ngươi khi mọi người sẽ khen ngợi các ngươi…” (LuLc 6:24, 26) rồi tái định nghĩa chúng, cất đi phần ý nghĩa rõ ràng của chúng, để biến thành: “Khốn nạn cho các ngươi là những kẻ quá tham tiền đến nỗi chối bỏ đức tin vào (đạo) Đức Chúa Trời” và “Khốn nạn cho các ngươi vì đã trở thành những kẻ vô thần để được lời khen ngợi rẻ tiền của những người bất trung của thế gian này.” Những câu nói này đã được định nghĩa để chỉ còn có nghĩa hẹp, vừa đủ để không còn là mối đe dọa cho những những người làm công việc tái định nghĩa.
6. Thẩm quyền ngoài Kinh Điển (Extracanonical authority). Bằng cách sử dụng một thứ chìa khóa đặc biệt bên ngoài để tìm hiểu Kinh Thánh, thường là một mớ giáo điều hoặc một quyển sách được coi là bày tỏ các chân lý của Kinh Thánh mà nếu không có không ai có thể hiểu được, người ta tự cho rằng họ có thể khai mở các huyền nhiệm của Kinh Thánh. Các tà giáo thường hoạt động căn cứ vào một thẩm quyền ngoài kinh điển, xem Kinh Thánh có phần nào giống như một loạt các câu đố cần có sự hiểu biết đặc biệt mới giải đáp được.
7. Đạo đức hóa (Moralizing): Khuynh hướng này cho rằng các nguyên tắc để sống có thể được rút ra từ tất cả các khúc Kinh Thánh. Do đó, người đọc Kinh Thánh theo khuynh hướng này sẽ đặt câu hỏi “Bài học đạo đức của câu chuyện này là gì?” ở cuối mỗi một câu chuyện. Chẳng hạn, “Từ cách dân Y-sơ-ra-ên chịu đựng suốt những năm làm nô lệ tại Ai Cập, chúng ta học được gì về cách đối phó với nghịch cảnh?” Chỗ sai của khuynh hướng này là bỏ qua sự kiện các câu chuyện vốn được viết ra nhằm bày tỏ diễn tiến trong lịch sử cứu chuộc của Đức Chúa Trời, chứ không phải nhằm minh họa các nguyên tắc. Đó là những câu chuyện lịch sử, chứ không phải câu chuyện minh họa.
8. Cá nhân hóa (Personalizing): Là đọc Kinh Thánh và cho rằng một phần nào đó hoặc tất cả các phần trong đó đều dành để ứng dụng cho riêng bạn hoặc cho nhóm người của bạn, chứ không thể đem ứng dụng cho mọi người khác. Người ta vốn có khuynh hướng vị kỷ, cả khi họ đọc Kinh Thánh. Khi họ không thỏa mãn với bức tranh rộng lớn về lịch sử cứu chuộc của Đức Chúa Trời, họ rất dễ sa vào sự cám dỗ là cố tìm một điều gì đó để thỏa mãn các nhu cầu, các khát vọng, hoặc các vấn đề cá nhân của riêng họ. Họ có thể quên rằng toàn bộ Thánh Kinh được Đức Chúa Trời ban cho tất cả mọi người, chứ không phải chỉ ban cho riêng họ mà thôi. Chẳng hạn, người ta đã sai lầm khi cho rằng “câu chuyện con lừa biết nói của Ba-la-am nhắc nhở tôi rằng tôi đã nói quá nhiều,” hoặc “câu chuyện xây cất đền thờ là cách Đức Chúa Trời dạy chúng ta phải xây một ngôi nhà thờ mới.”
Lời nhắc nhở ngắn ngủi và rất hữu ích liên hệ đến cách đọc và tìm hiểu các truyện ký mà chúng tôi muốn gởi đến cho các bạn là: Đừng đọc Kinh Thánh theo lối thấy gì làm nấy. Chẳng hề có câu chuyện nào trong Kinh Thánh đã được viết ra đặc biệt về chính bạn cả. Câu chuyện Giô-sép là về chính Giô-sép, đặc biệt đề cập cách Đức Chúa Trời đã dùng ông để làm mọi việc – chứ không phải là một câu chuyện trực tiếp về chính bạn. Câu chuyện Ru-tơ nhằm ca ngợi sự bảo vệ và phước hạnh mà Đức Chúa Trời đã ban cho Ru-tơ và dân chúng tại Bết-lê-hem – chứ không phải là về chính bạn. Bạn luôn luôn có thể học hỏi được rất nhiều điều từ các câu chuyện này cũng như những câu chuyện khác trong Kinh Thánh, nhưng bạn đừng nghĩ rằng Đức Chúa Trời trông mong bạn cũng phải làm đúng y những điều mà các nhân vật trong Kinh Thánh đã làm, hoặc sẽ gặp những việc đúng y như những việc đã xảy ra cho họ. Chương 6 sẽ có phần thảo luận thêm về vấn đề này.
Các nhân vật trong Kinh Thánh có khi tốt khi xấu, có khi khôn ngoan, mà cũng có khi dại dột. Nhiều khi họ bị trừng phạt, nhiều khi được thương xót, nhiều khi được sống thanh thản, nhiều khi phải khổ sở.
Nhiệm vụ của bạn là học hỏi Lời Đức Chúa Trời từ các câu chuyện về họ, chứ đừng cố tìm cách làm mọi việc như đã xảy ra trong Kinh Thánh. Không phải chỉ vì một ai đó trong một câu chuyện Kinh Thánh đã làm một việc gì đó mà chính bạn cũng được phép hoặc bị bắt buộc phải làm y như thế.
Điều bạn có thể làm và nên làm là vâng theo điều Đức Chúa Trời thật sự kêu gọi bạn làm trong Kinh Thánh. Các câu chuyện sở dĩ quý báu cho chúng ta vì chúng chứng minh cách sống động việc Đức Chúa Trời can thiệp vào thế gian này và minh họa cho các nguyên tắc và tiếng gọi của Ngài. Vì thế, các câu chuyện dạy chúng ta rất nhiều điều – nhưng những gì chúng trực tiếp dạy dỗ chúng ta không phải là hệ thống đạo đức cá nhân. Về lãnh vực này chúng ta phải tìm ở những chỗ khác trong Kinh Thánh, ở nhiều chỗ khác nhau để biết được những lời dạy rõ ràng và đặc biệt về vấn đề đạo đức cá nhân. Tính cách phong phú và đa dạng của Kinh Thánh phải được hiểu như là một đồng minh của chúng ta – một nguồn tài nguyên đáng được hoan nghênh chứ không bao giờ là một gánh nặng phiền toái.