Niềm tin về Đức Thánh Linh
Tôi tin Thánh Linh
Thánh Linh là ngôi thứ ba trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời . Thứ bậc này chỉ là một cách nói chứ không hàm ý Đức Thánh Linh kém Đức Chúa Trời và Đức Chúa Giê-xu.
Niềm tin về Đức Thánh Linh
Tôi tin Thánh Linh
Thánh Linh là ngôi thứ ba trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời . Thứ bậc này chỉ là một cách nói chứ không hàm ý Đức Thánh Linh kém Đức Chúa Trời và Đức Chúa Giê-xu. Thật ra, Đức Thánh Linh chính là Đức Chúa Trời vì:
1. Đức Thánh Linh có những bản tính giống như Đức Chúa Trời: thánh khiết, toàn năng, toàn tri, toàn quyền và muôn đời hiện hữu (hằng hữu) (Xa-cha-ri 4:6; I Cô-rinh-tô 2: 10,11).
2. Đức Thánh Linh ngan hàng với Đức Chúa Trời và Đức Chúa Giê-xu (Ma-thi-ơ 28:19).
3. Đức Thánh Linh cũng là Đấng Tạo Hóa, Ngài hiện hữu trước khi vũ trụ được tao dựng, và Ngài cùng với Đức Chúa Trời tạo dựng muôn vật (Sáng thế ký 1;2).
4. Khi có Đức Thánh Linh ngự trị, thân thể người tin Chúa trở nên đền thờ cua Đức Chúa Trời (I Cô-rinh-tô 6:19-20; 3:16-17).
5. Nói dối Đức Thánh Linh là nói dối Đức Chúa Trời (Công vụ 5:3-4).
Khi nói, “Tôi tin Thánh Linh,” hàm ý chúng ta tin Đức Thánh Linh là Đức Chúa Trời và tin vào những việc Ngài làm cho chúng ta. Những việc đó là:
– Giúp chúng ta nhìn thấy tội lỗi (Giăng 16:8-9).
– Ngự trị trong lòng người tin Chúa (I Cô-rinh-tô 3:16; Rô-ma 8:24).
– Soi sáng và giúp chúng ta hiểu lời Kinh Thánh (Giăng 16:13).
Người tin Chúa luôn luôn có Đức Thánh Linh ngự trị trong lòng. Khi một người để Chúa hoàn toàn làm chủ cuộc sống, đó là người đầy dẫy Đức Thánh Linh. Đời sống người đầy dẫy Đức Thánh Linh sẽ biểu lộ những mỹ đức: yêu thương, vui mừng, bình an, nhẫn nhục, nhân từ, hiền lành, trung tín, hoàn nhã và tiết độ (Ga-la-ti 5:22).
“Tôi tin Thánh Linh” nghĩa là tôi tin Thánh Linh là Đức Chúa Trời, và tôi tin Ngài đang ngự trị trong lòng tôi để dạy bảo và hướng dẫn tôi sống làm rạng danh Chúa và hữu ích cho người chung quanh.
Niềm tin về Hội Thánh
Tôi tin Hội Thánh phổ thông
“Hội” là tập hợp của những người có cùng sở thích, một mục đích hay một niềm tin. Hội Thánh là tập hợp của những người có cùng niềm tin vào Chúa Cứu Thế Giê-xu. Tập hợp này được gọi là “thánh” vì người tin Chúa đã được biệt riêng cho Đức Chúa Trời qua cái chết hy sinh của Chúa Giê-xu. “Phổ thông” là từ ngữ dịch từ tiếng Hy-lạp katholikos có nghĩa là chung, tức là bao gồm tất cả mọi người, cho mọi người, không phân biệt một ai.
Khi một người tin Chúa, người ấy đượa gia nhập Hội Thánh phổ thông, tức là Hội Thánh chung của Đức Chúa Trời, bất cứ người ấy sống ở đâu, thời đại nào và thuộc chủng tộc nào. Hội thánh phổ thông có những đặc điểm sau:
1. Là Hội Thánh của Chúa, xây dựng trên một nền tảng vững chắc, không bao giờ thay đổi; nền tảng đó là Chúa Giê-xu (I Cô-rinh-tô 3:11).
2. Mọi người trong Hội Thánh đều tin Chúa thật lòng và đã được Chúa Thánh Linh tái tạo thành một người mới (II Cô-rinh-tô 5:17).
3. Dù bị chống đối, bách hại, Hội Thánh của Chúa sẽ tồn tại mãi (Ma-thi-ơ 16:18).
4. Chỉ có một Hội Thánh duy nhất và đứng đầu Hội Thánh là Chúa Cứu Thế Giê-xu (Cô-lô-se 1:18; Ê-phê-sô 5:23).
Khi nói “Tôi tin Hội Thánh phổ thông,” chúng ta xác nhận niềm tin rằng: người tin Chúa ở khắp mọi nơi, trong mọi thời đại được kết hợp thành một tập thể, dành riêng cho Chúa và do Chúa đứng đầu. Hội Thánh phổ thông là Hội Thánh duy nhất, chung cho tất cả những ai thật lòng tin nhận Chúa Giê-xu. (Cô-lô-se 1:18, Ê-phê-sô 5:23).
Khi nói “Tôi tin Hội Thánh phổ thông,” chúng ta xác nhận niềm tin rằng: người tin Chúa ở khắp mọi nơi, trong mọi thời đại được kết hợp thành một tập thể, dành riêng cho Chúa và di Chúa đứng đầu. Hội Thánh phổ thông là Hội Thánh duy nhất, chung cho tất cả những ai thật lòng tin nhận Chúa Giê-xu.
Sự cảm thông của thánh đồ
“Thánh đồ” là người biệt riêng cho Chúa. Khi tin Chúa, chúng ta trở nên người của Chúa và dành riêng cho Chúa dùng, vì thế được gọi là thánh đồ. Từ ngữ “cảm thông” dịch từ chữ koinonia trong tiếng Hy-lạp, mô tả sự liên kết chặp chẽ giữa người với người. “Sự cảm thông của thánh đồ” là mối liên hệ bền chặt giữa những người tin Chúa với nhau. Mối liên hệ này bắt nguồn từ chính Chúa (I Giăng 1:3).
Khi nói, “Tôi tin sự cảm thông của thánh đồ,” chúng ta bày tỏ niềm tin vào tình thân hữu, tình thương chân thành giữa người tin Chúa với nhau và niềm tin vào sự hợp nhất, tinh thần tương thân tương trợ cũng như tinh thần đoàn kết của người tin theo Chúa, trong mục đích hoàn thành sứ mạng quảng bá đạo Chúa cho người chưa tin.
Khi nói: “Tôi tin Hội Thánh phổ thông”, sự cảm thông của thánh đồ,” chúng ta không chỉ tuyên xưng niềm tin ấy bằng lời nói nhưng cũng sống sao cho xứng đáng với lời thánh bằng những hành động cụ thể như:
– Gia nhập Hội thánh để tạo mối thông công với những người cùng niềm tin.
– Cộng tác với các tín hữu trong Hội Thánh để hoàn thành sứ mệnh truyền bá Đạo.
– Không để những khác biệt nhỏ nhặt giữa các giáo phái gây chia rẽ trong Hội Thánh.
– Tránh xa những giáo hội không dạy và không thực hành đúng lời Thánh Kinh.
Niềm Tin Về Sự Tha Tội và Sự Sống Đời Sau
Sự Tha Tội
Khi tin Chúa, tất cả tội lỗi của chúng ta đều được Chúa tha thứ. Sự bình an trong tâm hồn là bằng chứng rõ ràng nhất của sự tha thứ đó. Thánh Kinh dạy: “Anh em phải hối cải, mọi người phải nhân danh Chúa Giê-xu chịu báp-têm để được tha tội.” (Công vụ 2:38). Sau khi tin Chúa, nếu chúng ta lầm lỡ phạm tội, Chúa sẽ tha thứ nếu chúng ta xưng tội với Ngài và quyết tâm ăn năn hối cải (I Giăng 1:9). Tuy nhiên, ta không thể dựa vào lòng nhân từ của Chúa để cứ tiếp tục phạm tội và cũng nhớ rằng có những tội dù đã được tha thứ nhưng hậu quả đau đớn ta vẫn phải chấp nhận. Thật ra, người ta thật sự tin Chúa không bao giờ tiếp tục sống trong tội lỗi nữa (I Giăng 3:6,9).
“Tôi tin … sự tha tội” nghĩa là tôi tin Chúa đã tha thứ và đã quên tất cả tội ác của tôi khi tôi ăn năn và công nhận rằng Chúa đã chịu chết vì tội của tôi. Tôi cũng tin rằng mỗi khi lầm lỡ phạm tội nếu tôi xưng tội với Chúa, Ngài sẽ tha thứ cho tôi. Tôi xưng tội trực tiếp với Chúa chứ không phải nhờ một người nào làm trung gian.
Sự sống lại của thân thể
Thánh Kinh dạy rằng, trong ngày cuối cùng, lúc Chúa Giê-xu trở lại trần gian, những người đã chết sẽ sống lại, trong một thân thể toàn hảo và thiêng liêng, không bị giới hạn bởi thời gian hay không gian (Giăng 5:28; Khải-huyền 22:13; I Cô-rinh-tô 15:52,53). Người không tin chúa sẽ sống lại để chịu xét đoán (Giăng 5:129).
Sự sống đời đời
Chúa Giê-xu tuyên bố rằng ai tin Ngài sẽ được cứu và được sự sống đời đời (Giăng 3:16). Sống đời đời hay sống vĩnh viễn là được ở trên thiên đàng, được sống bên cạnh Chúa mãi mãi, không bao giờ bị bệnh tật, đau đớn cũng không bị chết nữa (Khải huyền 21:3-4). Thánh Kinh cũng cho biết khi người tin Chúa qua đời, linh hồn người ấy được đón về với Chúa ngay giờ phút người ấy trút hơi thở cuối cùng (II Cô-rinh-tô 5:6-8; Phi-líp 1:23). Trong ngày cuối cùng, khi Chúa Giê-xu trở lại trần gian, người tin Chúa sẽ được sống lại, trong một thân thể thiêng liêng bất diệt, giống như thân thể phục sinh của Chúa cứu Thế (I Giăng 3:2). Với thân thể thiêng liêng đó, chúng ta sẽ được sống bên cạnh Chúa mãi mãi, để cùng cai trị trần gian và cùng hưởng vinh quang với Ngài (II Ti-mô-thê 2:11,12; Khải huyền 5:9-10). Sự sống đời đời cũng chỉ về một cuộc sống có ý nghĩa ngay trên đời nầy vì chúng ta tin nhận Chúa (Giăng 10:10).
Khi nói, “Tôi tin sự tha tội, sự sống lai của thân thể và sự sống đời đời,” chúng ta nói lên niềm tin vào Chúa Giê-xu, tin rằng Chúa đã chết để chúng ta được tha tội và Ngài đã sống lại để chúng ta được sống lại và được sống mãi mãi bên cạnh Ngài.
Hiểu rõ ý nghĩa bài Tín Điều Các Sứ Đồ, mỗi khi đọc bài này, chúng ta xác nhận đức tin của chính mình đối với chúa và hết lòng sống đúng theo những điều chúng ta tin nhận.
BÀI TẬP ÔN
1. Chữ “Tôi” trong Bài Tín Điều cho thấy đức tin là vấn đề_______________của mỗi người.
2. Ba điều chúng ta tin về Đức Chúa Trời là:
(1)_________________________________________
(2)_________________________________________
(3)_________________________________________
3. Khi nói, “Tôi tin Giê-xu Christ,” chúng ta xác nhận hai điều:
(1)______________________________________
(2)______________________________________
4. khi gọi Chúa Giê-xu là “Chúa” chúng ta công nhận Ngài có____________________________trên đời sống chúng ta.
5. Chúa Giê-xu sinh ra như mọi người nhưng Chúa không có bản tính___________________và không_____________________.
6. Chúa Giê-xu sống lại chứng tỏ:
(1)__________________________
(2)__________________________
(3)__________________________
(4)__________________________
7. Một ngày kia, Chúa Giê-xu sẽ trở lại_____________thế gian và _______________mãi mãi.
8. Ba điều Chúa Thánh Linh là cho chúng ta là:
(1)_________________________________
(2)_________________________________
(3)_________________________________
9. Hội Thánh phổ thông bao gồm người tin Chúa ở____________,trong mọi thời đại, kết hợp thành một tập thể dành riêng cho Chúa và do_____________đứng đầu.
10. Những hành động cụ thể bày tỏ niềm tin vào Hội Thánh và sự cảm thông của thánh đồ là:
(1)____________________________________
(2)____________________________________
(3)____________________________________
(4)____________________________________
11. “Tôi tin sự taha tội” nghĩa là tôi tin Chúa đã_____________và đã________________tất cả_______________của tôi khi tôi________________và công nhận rằng Chúa đã_____________vì tội của tôi.
12. Sự sống đời đời cũng chỉ về một cuộc sống_________________ngay trên đời nầy vì chúng ta________________.
13. Mỗi khi đọc Bài Tín Điều Các Sứ Đồ, chúng ta______________đức tin của mình và hết lòng sống theo những điều chúng ta____________
Ý NGHĨA LỄ BÁP-TÊM
Từ ngữ “báp-têm” phiên âm từ chữ baptême của tiếng Pháp (tiếng Anh là baptism). Những chữ nầy gốc từ chữ baptisma trong tiếng Hi-lạp (ngôn ngữ của Thánh Kinh Tân Ước). Chữ baptisma phát xuất từ động từ baptizò và baptò nghĩa là “dầm hay nhúng trong nước.”
Báp-têm là thánh lễ dành cho những người bày tỏ lòng ăn năn hối cải và quyết đinh đặt lòng tin nơi Chúa. Báp-têm không phải là lễ rửa tội nhưng là nghi lễ mang những ý nghĩa sau:
1. Bày tỏ lòng vâng phúc Chúa
Trước khi thăng thiên, lời cuối của Chúa Giê-xu cho các môn đệ là: “Hãy đi dạy dỗ muôn dân. Hãy nhân Danh Đức Cha, Đức Con và Đức Thánh Linh mà làm phép báp-têm cho họ” (Ma-thi-ơ 18:19). Lễ báp-têm không làm chúng ta sạch tội nhưng vâng lời Chúa, chúng ta nhận thánh lễ báp-têm để bày tỏ lòng vâng phục.
2. Công khai xưng nhận đức tin
Lời Chúa dạy: “Nếu miệng ngươi xưng Đức Chúa Giê-xu ra và lòng người tin rằng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại thì ngươi sẽ được cứu; vì tin bởi trong lòng mà được sự công bình, còn bởi miệng làm chứng mà được sự cứu rỗi” (Rô-ma 10:9-10).
Đức tin là vấn đề riêng tư giữa mỗi người với Chúa, nhưng chúng ta phải bày tỏ đức tin cho mọi người đều biết. Chúa Giê-xu phán: “Ai xưng Ta ra trước mặt thiên hạ thì Ta cũng sẽ xưng họ trước mặt Cha Ta ở trên trời; còn ai chối ta trước mặt thiên hạ, thì Ta cũng sẽ chối họ trước mặt Cha Ta ở trên trời” (Ma-thi-ơ 10:32-33).
Chúa Giê-xu đã chịu chết tỏ tường trước mặt mọi người bên ngoài thành Giê-ru-sa-lem (Giăng 19:20), khi tin nhận Chúa, chúng ta cũng cần công khai bày tỏ đức tin của mình cho mọi người đều biết. Công khai xưng nhận đức tin trong thánh lễ báp-têm là bằng cụ thể của đức tin thật. Chúng ta khẳng định về sự chấp nhận, ký thác, cam kết và tôn thờ của chúng ta đối với Chúa (trang 7).
3. Đồng sống đồng chết với Chúa.
Thánh Kinh dạy: “Anh em chẳng biết rằng chúng ta thảy đều đã chịu báp-têm trong Đức Chúa Giê-xu là chịu phép báp-têm trong sự chết Ngài sao, hầu cho Đấng Christ nhờ vinh hiển của Cha được từ kẻ chết sống lại thể nào, thì chúng ta cũng sống trong đời mới thể ấy” (Rô-ma 6:3-5).
Khi một người dầm mình dưới nước trong thánh lễ báp-têm, điều đó tượng trưng cho việc chết và chôn đời sống tội lỗi cũ. Ra khỏi nước tượng trưng cho việc bước vào một đời sống mới. Nước của lễ báp-têm không rửa tội hay chôn tội nhưng chỉ có ý nghĩa tượng trưng và nhắc người nhận lễ nhớ rằng mình đã chết con người cũ và từ nay sống đời sống mới.
Nhận thánh lễ báp-têm chúng tỏ chúng ta: (1) Vâng lời Chúa. (2) Công khai cho mọi người biết về đức tin của chính cá nhân chúng ta nơi Chúa. (3) Quyết tâm chết đời sống tội lỗi cũ và bắt đầu một cuộc sống mới.
BÀI TẬP ÔN
1. Báp-têm là thánh lễ dành cho những người bày tỏ lòng____________và quyết định_____________nơi Chúa.
2. Báp–têm không phải là lễ_____________________nhưng là nghi lễ:
a. Bày tỏ lòng____________Chúa
b. Công khai_______________________
c. Chứng tỏ chúng ta quyết tâm đồng________và đồng_________với Chúa.
3. Chúa Giê-xu trước khi thăng thiên dạy các môn đệ phải đi dạy dỗ muôn dân và____________________cho họ.
4. Lời Chúa dạy: “Tin bởi trong___________mà được sự công bình, còn bởi_____________làm chứng mà được sự cứu rỗi.”
5. Dầm mình dưới nước trong thánh lễ báp-têm, tượng trưng cho việc__________và____________đời sống tội lỗi cũ. Ra khỏi nước tượng trưng cho việc_____________một đời sống mới.