Chương 13
MỞ CHIẾN DỊCH TRUYỀN GIÁO
Anh Quang thợ sơn lê bước dọc theo lối đi hẹp của nhà số 1, đường Beaumont, vùng Whitechapel và mở cửa trước. Trong bộ áo Tàu lụng thụng, tóc bím lòng thòng sau lưng, trông anh có vẻ không thích hợp với một căn nhà nhỏ bẩn thỉu nằm trong một phố phụ ở Luân đôn. Chàng thanh niên đứng ngoài cửa nén sự ngạc nhiên khi nhìn thấy anh. Vì chàng không nghĩ một giáo sĩ từ Trung hoa về, người mà anh muốn gặp, lại mang theo một người đầy tớ Trung hoa về nhà.
Chàng thanh niên tên Meadows hỏi, “Ông Taylor có nhà không?”
Anh Quang trả lời theo giọng Anh lơ lớ, “Xin mời ông vào. Để tôi đi tìm chủ tôi.” Sau một phút anh trở lại mời ông khách vào trong một gian phòng nhỏ, bàn ghế sơ sài. Hudson đang ngồi đó mải miết làm một việc khiến anh bận rộn từ lúc anh trở về từ Trung hoa, một công việc rất có thể kéo dài—hiệu đính lại quyển Tân Ước bằng tiếng Trung hoa. Tóc bím của anh đã cắt đi rồi vì bây giờ anh đã trở lại Anh quốc. Và trong bộ quần áo cũ, mòn, trông anh giống như một lão thư ký nghèo. Trời lạnh mà lửa củi cũng sắp hết! Chàng thanh niên liếc nhanh qua cái nghèo của người mà anh đến gặp. Hudson đứng dậy, tươi cười chào người khách. Sau nầy khi anh ngồi dùng bữa chung với Hudson và Maria, quan sát thấy khăn trải bàn không được sạch, rồi thức ăn do anh Quang nấu không mấy ngon, lẽ ra anh đã cảm thấy nản lòng về những gì anh chứng kiến trong đời sống của giáo sĩ. Nhưng anh lại không chán nản. Hai giáo sĩ trẻ nầy, cả hai đều chưa đầy 30 tuổi, có thể kể cho anh nghe về những câu chuyện gay cấn và hồi hộp của những thành phố bị vây hãm, những trận trốn thoát khỏi bọn cướp biển, những lời cầu nguyện được đáp lời. Hai người nầy tạo ra một ấn tượng sâu xa trong tâm trí anh. Rõ ràng là họ có một mục đích trong đời sống. Việc áo quần họ mặc đã lỗi thời hay thảm trải nền nhà bị lủng lỗ không quan hệ. Họ chẳng quan tâm gì đến áo quần hay thảm trải. Điều họ chú tâm duy nhất là hàng triệu người Trung hoa chưa biết gì về Thượng Đế chân thật, cho nên phải rao giảng về Ngài cho họ. Chàng thanh niên Meadows cũng có ý nghĩ tương tự và muốn đi sang Trung hoa để rao truyền lời Chúa càng sớm càng tốt. Anh ta cho rằng Hudson là cơ quan truyền giáo mà anh muốn gia nhập!
Hudson giải thích rằng mặc dù anh rất mong muốn có người đi sang Trung hoa để rao tin mừng về Thượng Đế yêu nhân loại. Chính anh cũng ao ước sớm trở lại đó nhưng anh không phải là hiệp hội truyền giáo vì anh chẳng có tiền bạc gì! Thậm chí anh cũng chẳng có đủ tiền để gởi một giáo sĩ sang Trung hoa là khác. Thật ra sau khi vì lâm bệnh mà anh phải trở về Anh quốc anh cũng chưa biết tháng tới làm sao để trả tiền thuê nhà nữa. Anh đã ra khỏi Hiệp hội Truyền giáo Trung hoa từ lâu và đang bận rộn hoàn tất chương trình huấn luyện y khoa đồng thời lo hiệu đính bản Tân Ước tiếng Trung hoa cho nên anh không có thì giờ mà “đi làm để kiếm sống nữa.” Thật là lạ lùng khi có tiền bạn hữu và thân nhân gởi cho, lắm lúc hầu như đến phút chót. Đó là những bạn hữu rất quan tâm đến anh và nước Trung hoa. Anh biết rằng Thượng Đế cảm động lòng họ làm điều đó cho nên niềm tin của anh vào Cha Thiên thượng càng tăng thêm mạnh. Dù sao anh vẫn cảm thấy không thể thu dụng giáo sĩ trong những hoàn cảnh như thế và anh buộc phải nói thẳng ra như vậy.
Tuy nhiên, chàng thanh niên Meadows lại nghĩ khác. Nếu Thượng Đế đã cảm động lòng nhiều người để ủng hộ tôi tớ Ngài là Hudson Taylor thì chẳng lẽ Ngài không thể cảm động lòng người khác để ủng hộ chàng Meadows là tôi tớ Ngài hay sao? Được phấn khởi bởi những gì anh đã nghe và thấy, anh bảo đảm với Hudson rằng anh sẵn lòng đi Trung hoa với niềm tin rằng Thượng Đế sẽ lo cho anh.
Thế là Hudson có được giáo sĩ đầu tiên. Giáo sĩ nầy đáp tàu sang Trung hoa vài tháng sau đó. Nhớ lại những kinh nghiệm đầu tiên của anh ơ Thượng hải, Hudson nhất định rằng giáo sĩ của anh sẽ nhận được tiền bạc và thư từ đều đặn chứ không phải lâu lâu mới nhận. Anh mua một quyển sổ kế toán to, rất trịnh trọng để ghi ngay vào đó những món tiền nhận được và gởi đi cho chàng Meadows. Anh cũng mua một cặp hồi sơ để lưu trữ thư từ. Anh cũng viết thư cho Meadows đều đặn. Sau một năm thì chàng Meadows chỉ có một lời than phiền là anh ta được chăm sóc quá kỹ, nhận được tiền đều đặn đến nỗi đôi khi anh ta cảm thấy như mình không sống bằng đức tin vào Chúa gì cả! Anh hơi thất vọng vì anh đã không phải chịu khốn khó vì thiếu tiền! Hudson trả lời rằng anh không biết lương của anh ta vào tháng tới sẽ đến từ đâu, được bao nhiêu, và cả hai cần phải cầu xin Chúa cung ừng. Chàng Meadows cảm thấy yên tâm!
Nhưng thêm một giáo sĩ vào một vùng đất mà có hàng triệu triệu nguời đang sống và chết mà chưa hề được nghe về một Thượng Đế chân thật thì có thấm vào đâu? Trong văn phòng ở số 1 đường Beaumont, vùng Whitechapel có treo một bản đồ Trung hoa thật lớn trên vách. Mắt của Hudson lúc nào cũng dạo qua toàn thể bản đồ khi anh ngước nhìn sau khi đọc Thánh Kinh bằng tiếng Trung hoa và tiếng Anh trên bàn viết trước mắt anh. Anh đọc đi đọc lại tên của những tỉnh nằm xa bờ biển. Tên các tỉnh ấy mang một âm điệu hay và hình ảnh thật đẹp. Chúng gợi trí tưởng tượng—Nam Vân, Tứ Suối, Tây Sơn, Bắc Hồ, Thanh Hải, Nam Giang. Các giáo sĩ Tin Lành chưa hề đặt chân đến những miền xa xôi ấy. Hudson nghĩ đến hàng trăm thành phố, hàng ngàn thị trấn và hàng vạn làng mạc nằm trong những nơi đó. Hàng trăm, hàng ngàn, hàng triệu. Con số hàng triệu lúc nào cũng ám ảnh trong đầu anh. Hàng triệu người Trung hoa—những người thật dễ thương, đang lầm lạc như ông Ni, anh Quang thợ đan giỏ, và anh Quang nông gia ở làng Ô-xi. Khi anh nhìn gương mặt của anh Quang thợ sơn trung thành, người đã rời quê hương để phục vụ mình thì anh luôn nhớ lại những người Trung hoa ấy.Và rồi anh nhớ lại ông sư tự giam mình trong một phòng nhỏ xíu qua bốn bức tường nơi một ngôi chùa, mong tìm “Đạo.” Anh nghĩ đến cha của ông Ni, người đã cố gắng tìm “Đạo” suốt hai mươi năm mà đến chết vẫn không tìm được. Anh càng cầu xin Chúa sai nhiều giáo sĩ đến những tỉnh thành xa xăm ấy anh càng cảm thấy mình phải làm một cái gì về mối bận tâm nầy.
Anh đã tiếp xúc với tất cả các hiệp hội truyền giáo mà anh nghĩ đến để yêu cầu họ gởi người đến nội địa Trung hoa—đến những tỉnh thành rộng lớn nơi có hàng triệu người đang chờ nghe biết về Chúa Giê-xu. Người ta nghe anh trình bày với nhiều thiện cảm nhưng tất cả đều nói là hiện tại chưa thể làm được gì. Thế là ý nghĩ lại trở về với anh là có lẽ chính anh bắt đầu thành lập một tổ chức truyền giáo để đi đến các vùng nội địa xa xôi như Tây sơn, Nam Vân, Bắc hồ…
Anh hăng hái và thường xuyên nghiên cứu bản đồ treo trên vách. Anh dành rất nhiều thì giờ làm việc đó. Có mười hai tỉnh lớn và vùng Tây tạng huyền bí chưa có giáo sĩ. Hudson nghĩ, nếu mỗi tỉnh có được hai giáo sĩ thì quá tốt! Dù sao đó cũng là khởi điểm.
“Vậy tại sao anh không xin Chúa gởi giáo sĩ đến cho anh?”
Ý nghĩ ấy đến không phải lúc. Hudson không thích nghĩ tới nó. Anh không muốn sáng lập một hội truyền giáo để đi Trung hoa lục địa. Anh sẵn sàng đích thân đi đến đó nhưng anh không muốn gởi người khác đi. Giả sử những thanh niên nam nữ được anh gởi đến những nơi ấy rồi không đủ tiền trợ cấp cho họ thì sao? Giả sử họ bị chết đói thì thế nào? Hay giả sử người Trung hoa nổi giận với những người đến giảng một tôn giáo khác rồi giết họ thì sao? Đủ thứ giả sử ghê gớm nẩy ra trong đầu anh. Hudson suy nghĩ, gởi một người đến chỗ chết là một việc ghê sợ! Anh cảm thấy trách nhiệm ấy quá lớn nên anh tìm cách dẹp qua cái ý tưởng thành lập hiệp hội truyền giáo. Nhưng anh không dẹp được. Ý tưởng đó vẫn vương vấn trong đầu anh.
Vào một buổi chiều tháng sáu khi anh đang đi dạo trên bờ biển ở Brighton thì Hudson quyết định thành lập hiệp hội truyền giáo. Anh bước trên các viên sỏi xuống mé nước, anh nhìn qua mặt biển yên tĩnh long lanh dưới ánh mặt trời mà tâm trí anh rối như tơ vò. Anh suy nghĩ đến trách nhiệm gởi nam nữ giáo sĩ đến sâu trong nội địa Trung hoa, nơi họ có thể bị chết đói! Mặt khác, anh suy nghĩ đến việc để cho hàng triệu người Trung hoa chết đi mà không biết Chúa! Ý nghĩ đó còn đáng sợ hơn.Và rồi bỗng nhiên anh nẩy ra ý tưởng rằng dù cho các giáo sĩ phải chết đói đi nữa thì họ sẽ được lên thẳng thiên đàng—có điều gì tốt hơn nữa đâu? Và giả sử trước khi qua đời họ đã đưa một người Trung hoa thôi quay khỏi việc thờ cúng ma quỉ mà trở lại kính thờ Thượng Đế thì cũng đáng. Ý tưởng hơi bi quan ấy tuy có vẻ kỳ lạ nhưng cũng khiến tâm trí anh sáng suốt hơn đôi chút.
Rồi một ý tưởng khác nẩy ra trong đầu anh. Nếu anh thành lập một hiệp hội truyền giáo để hoạt động trong nội địa Trung hoa thì chỉ vì anh biết Chúa thúc giục anh làm việc ấy cho Ngài cho nên tất cả trách nhiệm về những gì sẽ xảy ra thuộc về Chúa chứ không phải thuộc về anh nữa!
Nghĩ như thế, Hudson tự nhủ tại sao ý tưởng ấy không nẩy ra trong trí anh trước đây? Chúa sẽ chịu trách nhiệm, không phải anh! Và khi ý nghĩ nầy ngấm sâu vào tâm trí thì anh cảm thấy như một gánh nặng to lớn đang nhẹ nhàng lăn đi.
Anh cầu nguyện với tấm lòng nhẹ nhõm. “Chúa ơi! Ngài sẽ mang mọi gánh nặng ấy!” Gánh nặng đã được cất khỏi anh rồi—anh không còn bị ám ảnh bởi ý nghĩ lo sợ rằng các giáo sĩ sẽ bị chết đói nữa! “Con sẽ tiến bước như đầy tớ Ngài, vâng theo lời giục giã của Ngài…” Thật thế, anh sẽ thành lập một hiệp hội truyền giáo vì bây giờ anh biết anh có thể làm việc đó. Tất cả những lo âu về những gì sẽ xảy ra trong tương lai đều tan biến như sương mù trước tia nắng sớm mai. Những gì có thể xảy ra vì vâng theo tiếng Chúa không phải là trách nhiệm của anh. Giờ đây anh chỉ việc xúc tiến và cầu xin Chúa cung cấp những gì cần thiết để bắt đầu thành lập một hiệp hội truyền giáo để đi vào vùng Tây Sơn, Nam Vân, Bắc Hải…
Hudson ngẫm nghĩ, mười hai tỉnh và vùng Tây tạng. Cần hai nhân viên mỗi chỗ để bắt đầu mang tin mừng về tình yêu của Chúa cho nhân loại vào vùng nội điạ Trung hoa. Muời hai nhân hai là hai mươi bốn. Hudson, đầu trần, đứng trên bãi biển sáng Chúa nhật hôm ấy, nhắm mắt lại. Anh đứng như thế trong năm bảy phút liền trong khi sóng biển táp vào chân anh. Rồi anh mở Thánh Kinh của anh ra và ghi: “Tại tỉnh Brighton, ngày 25 tháng 6, năm 1865, cầu xin cho hai mươi bốn nhân công có khả năng, và sẵn lòng,” rồi anh sảng khoái bước đi trên các viên sỏi rồi lên đến khu tráng nhựa dọc theo bãi biển nơi các phụ nữ mặc váy dài đi sóng đôi với các thanh niên đội mũ lòng cao cùng các con ngựa đang hăng hái phi giữa hai càng xe và dây cương. Nhưng Hudson đâu có buồn để ý đến những người ăn mặc đúng thời trang đang đi lại náo nhiệt nơi bãi biển. Đầu óc anh ta đang vẩn vơ ở nơi xa xăm. Hai mươi bốn nhân công kể cả Maria và anh, sẽ mang tin mừng đến cho hàng triệu người ở Tứ Suối, Nam Giang, Thanh Hải, Hồ Bắc…
Anh tin chắc Chúa sẽ trả lời cầu xin của anh. Anh cũng không lo lắng lắm về hoàn cảnh hiện tại của chính anh còn không đủ tiền nuôi vợ và gia đình mà bây giờ phải cần đến hàng ngàn Anh kim mỗi năm để tài trợ cho hai mươi bốn nhân viên có khả năng và sẵn sàng ra đi. Nếu anh làm công việc Chúa theo đường lối Ngài, chắc chắn Chúa sẽ gởi số tiền mà anh cần đến!
Hudson rất thực tế. Nếu số người và số tiền đã có hay đang đến thì anh phải sẵn sàng. Anh trở lại Luân đôn ngày thứ hai và đến thứ ba anh ghé ngân hàng.
Anh nói với viên quản lý nhà băng, “Tôi muốn mở một trương mục mới.”
Viên quản lý hỏi, “Ông muốn bắt đầu với bao nhiêu tiền?”
“Mười Anh kim.” (Khoảng 50 mỹ-kim)
“Trương mục sẽ mang tên ai?”
Hudson đáp, “Hiệp hội Truyền Giáo Nội địa Trung hoa.”
Thế là hiệp hội truyền giáo ra đời!
Chương 14
ĐIỂM ĐẾN—NỘI ĐỊA TRUNG HOA
Hudson đi dọc theo phố rộng thuộc khu Tây, gần công viên Regent rồi bước lên các bậc thang của một trong những căn nhà lớn và bấm chuông. Một người giúp việc đàn ông mở cửa ngay. Hudson hơi ngại ngùng bước vào hành lang trang trí đúng kiểu, rất khác xa với hành lang hẹp dẫn tới cửa nhà số 1, đường Beaumont, thuộc khu Whitechapel!
Người giúp việc bảo anh, “Bà chủ đang chờ ông đó.” Anh trao cho người giúp việc cây gậy và nón của anh. Rồi anh được đưa vào phòng mà anh sẽ ăn sáng với phu nhân Radstock.
Không đầy một tuần sau khi anh thành lập Hiệp Hội Truyền Giáo Nội Địa Trung hoa, Hudson cũng chưa kịp chuẩn bị cho chiều hướng của các biến chuyển. Anh không quen tiếp xúc với giới thượng lưu quí phái! Nhưng bà chủ mời anh mà anh mới gặp lần đầu tiên ở nhà thờ ngày hôm qua làm cho anh cảm thấy thoải mái. Bà muốn nghe về nước Tàu cho nên khi anh kể về hằng triệu người trong các tỉnh vùng nội địa, và cách Chúa thúc giục anh đến với họ ra sao thì không những bà mà những người khác ngồi ăn sáng cùng bàn cũng chú ý. Chỉ trong một thời gian ngắn anh nhận được vô số lời mời tham dự các bữa ăn với các người có chức phận, nói chuyện trong các buổi họp mặt nơi phòng khách mà những khách tham dự mặc đồ ngủ! Tuần lễ trôi qua anh cảm thấy bị lôi cuốn theo thủy triều. Không những anh trải qua Anh quốc mà anh cũng qua vùng Tô-cách-lan và Ai-nhĩ-lan để gặp những người đã nghe về tổ chức của anh và để nói chuyện nơi các buổi họp mặt cả lớn lẫn nhỏ.
Một trong các buổi họp ấy anh gặp được một thanh niên trẻ trung hoạt bát sau nầy là người sáng lập của tổ chức Nhà Tạm Trú của bác sĩ Bardnado. Lúc ấy anh Tom Barnardo mới hai mươi tuổi, và là sinh viên của lớp thần học mà Hudson được mời đến thuyết trình. Anh ta người thấp bé nhưng khi anh đứng cạnh người sinh viên trưởng lớp cao lớn, anh ghé tai nói nhỏ vào người bạn ngồi bên cạnh, “Rất tốt! Tôi có hi vọng!” Vì chính anh cũng muốn đi Trung hoa cho nên anh tiếp xúc với Hudson để xin gia nhập tổ chức Truyền giáo Trung hoa Nội địa. Hudson khuyên anh trước hết nên học y khoa ở bệnh viện Luân-đôn, nơi mà anh khám phá ra rằng anh rất thích hợp với việc giúp đỡ những người vô gia cư. Tuy nhiên anh không phải là thanh niên duy nhất được thúc giục hành động khi nghe về nhu cầu của những người Trung hoa ở Tây Sơn, Bắc hồ, Nam Vân…Hudson đã cầu nguyện xin Chúa cho hai mươi bốn cộng tác viên có khả năng, có nhiệt tâm vào buổi sáng Chúa nhật đáng ghi nhớ trên bãi biển Brighton, và Thượng Đế đang trả lời cho sự cầu xin ấy.
Bây giờ thì ngày giờ quá ngắn đối với Hudson. Đi thăm viếng, nói chuyện ở các buổi họp, phỏng vấn những người muốn gia nhập Hiệp hội Truyền giáo, viết các sách nhỏ về Trung hoa, anh đi từ nơi nầy đến nơi khác liên tiếp không nghỉ chân. Hiện tại đã có bảy hay tám giáo sĩ đang làm việc ở Trung hoa kể cả anh Meadows. Tất cả đều sẵn sàng gia nhập Tổ Chức Truyền giáo để đi vào các tỉnh nằm sâu trong nội địa. Khi bắt đầu năm 1866 thì rõ ràng là tất cả hai mươi bốn nhân viên có khả năng, tình nguyện sẵn sàng đã được cung ứng cho anh—mười sáu thanh niên nam nữ đã sẵn sàng lên tàu cùng đi với anh và Maria sang Trung hoa nếu mọi việc được thu xếp xong xuôi.
Những việc cần được thu xếp dĩ nhiên là những loại công việc cần đến tiền. Hudson ước tính rằng cần phải có gần 10 ngàn mỹ kim để anh và đoàn truyền giáo sang Trung hoa. Thế nhưng đến đầu tuần lễ của tháng hai mà anh chỉ mới có 800 mỹkim trong trương mục. Họ dự định khởi hành vào tháng năm! Cứ theo tình trạng hiện tại mà nhìn thì họ rất khó có thể khởi hành vào lúc đó. Nhưng dù sao Hudson cảm thấy vững tâm rằng Chúa sẽ gởi đến cho họ số tiền cần có. Anh và Maria quyết định sẽ tổ chức buổi nhóm cầu nguyện ở nhà họ mỗi ngày vào mười hai giờ trưa để xin Ngài điều đó đồng thời xin Chúa hướng dẫn và giúp đỡ những gì liên quan đến chuyến đi Trung hoa. Một lần nữa anh cho thấy chuyện cầu nguyện là việc thực tế! Chỉ trong vòng năm tuần lễ sau khi họ bắt đầu những buổi cầu nguyện hằng ngày như thế thì toàn thể số tiền họ cần đã được gởi đến. Có một người gởi biếu một số tiền lớn. Bây giờ việc còn lại là tìm một chiếc tàu đủ lớn để đủ chở mười tám người lớn và bốn trẻ nhỏ.
Chuyện ấy có vẻ không dễ. Hết tháng tư rồi đến tháng năm mà vẫn chưa tìm được chiếc tàu nào thích hợp đi Trung hoa. Tuy nhiên Hudson và đoàn truyền giáo của anh vẫn hi vọng lên đường vào tháng năm.
Vào ngày 2 tháng 5, Hudson đang ở Herfordshire, ngụ tại nhà của Đại tá Puget là người đã mời anh đến nói chuyện ở một buổi họp. Buổi họp ấy được xem như là một “buổi họp tốt.” Toàn thể thính giả đều chăm chú nghe Hudson nói về hàng triệu người Trung hoa chưa bao giờ nghe về Chúa Giê-xu, mọi người đều yên lặng lắng nghe. Đại tá Puget, chủ toạ buổi họp, cảm thấy đây là cơ hội quá tốt không nên bỏ qua. Còn Hudson thì luôn luôn giao hẹn trước là trong bất cứ buổi họp nào của anh đều không có chuyện quyên tiền, nhưng Đại tá Puget thì cho rằng buổi họp mặt hôm nay phải được xem như ngoại lệ. Tại sao? Vì rõ ràng mọi người đều cảm động—cho nên chắc chắn họ sẽ dâng hiến rộng rãi cho công tác của Hiệp hội Truyền giáo Trung hoa Nội Địa nếu mâm dâng tiền được đưa qua! Cho nên ông cảm thấy hơi bực mình khi Hudson cản ông ta khi ông sắp thông báo là sẽ có cuộc lạc quyên.
Buổi chiều trong giờ ăn ông bảo, “Anh sai lầm lớn hôm nay. Mọi người hết sức chú tâm điều anh nói. Đáng lẽ nếu lạc quyên thì quá tốt.” Anh giáo sĩ trẻ trung nầy không thực tế! Nếu chỉ cầu xin Chúa cung cấp tiền bạc thì tốt nhưng không chịu quyên tiền khi mọi người đang sẵn sàng dâng hiến thì không phải chút nào. Đại tá Puget nghĩ như thế khi ông lên.
GS PHAM QUANG TAM
Mọi bài vở cộng tác và góp ý xin gửi về info@nguonhyvong.com
www.nguonhyvong.com