Chương 10
BỊ BỎ RƠI Ở TRUNG HOA
Hudson mệt mỏi ngồi xuống trên bực thềm của ngôi đền. Anh quyết định sẽ ngủ đêm tại đó. Lúc ấy đã hơn một giờ sáng. Anh đã hết sức cố gắng tìm một chỗ ngủ ở một thành phố lạ và không mấy thân thiện. Cửa nhà nào hình như cũng đóng chặt trước mặt anh, còn anh thì quá mệt mỏi không thể lết thêm bước nào được nữa. Anh ngả lưng trên các phiến đá gồ ghề, lạnh buốt, rồi đặt bị tiền dưới đầu, tự hỏi không biết có ngủ được không.


Chương 10

BỊ BỎ RƠI Ở TRUNG HOA

 

Hudson mệt mỏi ngồi xuống trên bực thềm của ngôi đền. Anh quyết định sẽ ngủ đêm tại đó. Lúc ấy đã hơn một giờ sáng. Anh đã hết sức cố gắng tìm một chỗ ngủ ở một thành phố lạ và không mấy thân thiện. Cửa nhà nào hình như cũng đóng chặt trước mặt anh, còn anh thì quá mệt mỏi không thể lết thêm bước nào được nữa. Anh ngả lưng trên các phiến đá gồ ghề, lạnh buốt, rồi đặt bị tiền dưới đầu, tự hỏi không biết có ngủ được không.
Anh mặc áo dài xanh, mang dép vải, đầu cạo trọc chỉ trừ trên đỉnh đầu tóc kết bính, trông anh giống hệt như một người Trung hoa, nghĩa là một người Anh, da trắng, mắt xanh gốc Yorkshire đang hóa thành người Trung hoa càng nhiều càng tốt. Mấy tháng trước đây anh đã bắt đầu ăn mặc giống y người Trung hoa. Vì thế mà anh đã bị các đồng nghiệp Âu châu chỉ trích nhưng anh có thể hội nhập dễ dàng hơn với người Trung hoa, và có thể đi đến nhiều nơi mà đa số người Âu châu có thể bị rắc rối. Đây là lần dầu tiên mà anh phải ngủ ngoài trời. Gần đây thì hình như không có việc gì suông sẻ cả. Đầu tiên là cơn hỏa hoạn thiêu hủy hết số thuốc của anh—quả là một mất mát lớn vì phí tổn thay thế số thuốc ấy rất cao. Rồi đến việc trước đó hai hôm, người đầy tớ của anh biến mất cùng tất cả hành lý của anh khiến anh bị kẹt, không còn gì ngoại trừ áo quần anh mặc trong người. Rồi bây giờ lại thiếu may mắn trong việc tìm chỗ trú ngụ. Anh hi vọng là đến sáng hôm sau anh sẽ có bữa điểm tâm, sau đó anh sẽ đi tìm người đầy tớ và hành lý lần cuối cùng rồi trở về Thượng hải. Vì anh chẳng còn bao nhiêu tiền trong túi cho nên việc tìm cách đi đến Ninh-bảo, nơi gia đình ông bà Parkers đang ở là việc vô ích. Anh úp mặt xuống gối đá, thở dài, rồi nhắm nghiền mắt lại.
Bỗng nhiên anh thức giấc, toàn thân anh căng thẳng nhưng bất động. Cái gì đang di động trong bóng tối kia? Có bóng người mờ mờ đang lén lút bước ngang các bậc thềm tiến về phía anh. Hudson vẫn nằm yên, giả bộ ngủ, anh trông rõ ràng bóng rách rưới của một tên ăn mày. Người ấy lặng lẽ bò đến vị giáo sĩ rồi đứng nhìn chăm chăm vào anh ta. Hudson nằm yên không cử động và sau vài phút khi chắc chắn rằng Hudson đã ngủ say, anh ăn mày cúi xuống và nhẹ nhàng sờ soạng vào Hudson.
“Anh làm cái gì đó?”
Hudson nhẹ nhàng hỏi nhưng giọng anh có vẻ đe dọa. Anh ăn mày giật mình. Cái ông đang nằm đó thật ra đâu có ngủ—ông ta đang thức và hình như sẵn sàng ra tay! Anh ăn mày vội vàng rút lui.
Hudson nhận thấy rằng anh nên cất tiền ở một nơi khác an toàn hơn là để ở dưới đầu khi ngủ, cho nên sau khi cất một ít tiền trong túi áo trong, số còn lại giấu trong ống tay áo, anh lại nằm xuống ngủ. Anh vừa thiu thiu thì bỗng nhiên linh tính đánh thức anh dậy. Anh cảm thấy có những chuyển động trong bóng tối, rồi hình dạng của những bóng người mờ mờ tiến tới gần. Lần nầy anh ăn mày trở lại với một hoặc hai đồng bạn nữa. Hudson nằm yên không cử động cho đến khi anh cảm thấy có bàn tay sờ soạng dưới đầu anh, tìm bị đựng tiền.
“Mấy anh làm gì đó?” Anh hỏi với giọng khe khẽ nhưng cương quyết như lần trước. Họ không trả lời nhưng mấy người ăn mày lùi lại vài bước rồi ngồi xuống.
Hudson hỏi lại, “Mấy anh làm gì đây?”
Họ trả lời, “Ngủ đêm ở ngoài ngôi đền thờ—như ông vậy.”
Hudson bảo, “Vậy thì mấy anh làm ơn qua phía bên kia và để tôi yên. Phía bên kia còn dư chỗ cho mấy anh.”
Các anh ăn mày không phản ứng gì trước lời đề nghị của Hudson nhưng họ không nhúc nhích. Vì thế Hudson ngồi dậy. Anh cảm thấy không nên nằm chỗ ấy vì anh có thể ngủ quên. Anh có thể bị lột hết những gì anh mang theo người nếu anh không tỉnh ngủ.
Để gỡ rối, một trong mấy anh ăn mày bảo Hudson, “Anh nên nằm xuống ngủ nếu không sáng mai anh sẽ không có sức làm việc. Đừng sợ. ” Anh ta tiếp như trấn an, “Chúng tôi sẽ không rời anh. Chúng tôi sẽ canh không cho ai làm hại anh!”
Hudson dõng dạc bảo, “Mấy anh nghe đây. Tôi không cần các anh bảo vệ tôi. Tôi không cần chuyện ấy. Tôi không phải người Trung hoa, tôi không thờ lạy các hình tượng của các anh. Tôi tôn thờ Thượng Đế. Ngài là Cha tôi. Tôi tin cậy nơi Ngài. Ngài sẽ bảo vệ tôi. Tôi biết mấy anh là ai và định làm gì. Tôi bảo cho các anh biết, tôi sẽ không ngủ. Tôi quyết định canh chừng mấy anh.”
Mấy anh ăn mày không nhúc nhích, còn Hudson cũng vậy. Anh ngồi dựa lưng vào vách, cố gắng giữ cho khỏi buồn ngủ, thì giờ trôi qua chậm chạp. Thỉnh thoảng anh lên tiếng, một phần để cho các người ăn mày biết anh vẫn còn thức, một phần để anh khỏi ngủ! Sau cùng anh nẩy ra ý kiến để khiến anh thức là hát, rồi sau khi đã hát chán rồi anh đọc lớn các khúc Thánh Kinh, xong thì cầu nguyện. Trong khi những việc thiêng liêng ấy khiến anh thêm hăng hái thì chúng lại có tác dụng trái ngược đối với các anh ăn mày. Họ thì thầm với nhau, bảo anh phải nói khe khẽ, rồi cuối cùng bỏ đi. Trước khi trời sáng và sau khi thấy họ biến dạng sau ngõ hẻm, Hudson nghỉ xả hơi, rồi ngủ được trong giây lát.
“Cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ gối đầu.” Những lời đó mang một ý nghĩa mới cho anh ngày hôm ấy trong khi anh mệt mỏi lê bước dọc theo bờ ruộng tít mù trên con đường đến nơi mà anh hi vọng sẽ tìm được một chiếc thuyền chở anh đi Thượng hải. Thầy của anh biết bị khinh khi và từ bỏ như thế nào, anh cũng có kinh nghiệm ấy hôm trước khi anh đi tìm chỗ trú thân mà không được. Thầy của anh biết chịu lạnh và khó chịu khi ngủ ngoài trời và bị những người bất lương theo đuổi. Cho nên những nỗi khổ cực và sỉ nhục mà anh đã trải qua không đáng kể gì so với những cảnh khổ mà Đấng Cứu Thế Giê-xu, Chúa Vinh hiển đã cam chịu vì anh! Nếu anh có mất tất cả các của cải, và hình như anh đang mất thật đấy nhưng có đáng kể gì đâu! Linh hồn của những người Trung hoa nầy đáng giá gấp ngàn lần so với những của cải vật chất mà anh quí trọng. Tại sao anh quá bận tâm đến các của cải ấy mà không lo gì đến linh hồn của những tội nhân nghèo khó và dốt nát nầy? Cho nên vừa đi anh vừa cầu nguyện, “Chúa ơi, xin tha thứ những khuyết điểm của con. Xin giúp con chỉ làm theo ý muốn Ngài, xin cho con đi theo dấu chân Ngài…” Theo các dấu chân ấy và trở nên giống như Thầy mình, ngoài ra không còn có gì đáng kể nữa.
Đêm đó anh được các thuyền nhân thân thiện mời ngủ chung trên thuyền với họ, và anh vui vẻ nhận lời. Thật là lạnh vì không có giường nhưng anh cảm thấy thoải mái nằm xuống mà không sợ bị cướp bóc. Sáng hôm sau khi thức dậy thì anh cảm thấy đau cổ nhưng lòng thì thoải mái vì nỗi lo âu về những mất mát của anh đều tan biến cả. Dù sao, Thượng Đế có thể phục hồi lại các mất mát ấy nếu điều đó là tốt cho anh, bằng không thì anh cũng chẳng cần!
Giờ đây việc cần phải làm là tìm một chiếc thuyền đi Thượng hải, và phải trở về đó ngay. Anh không cần phải tìm người đầy tớ hay hành lý nữa. Anh đi bộ trên đường dài về phía đô thị, nơi anh hi vọng sẽ tìm được một chiếc thuyền. Sau khi trả tiền ăn sáng nơi quán bên đường và kiểm điểm lại thì anh thấy chỉ còn đủ trả lộ phí và tiền ăn trong ba hoặc bốn ngày để đi đến Thượng hải mà thôi. Bây giờ là phải tìm một chiếc thuyền chở anh đi đến đó càng sớm càng tốt!
Nhưng chẳng có chiếc thuyền nào đi Thượng hải cả. Người ta cho anh biết là dù cho đi đến Kha-sinh Phú cũng chẳng có thuyền nào đi. Hudson chạy từ văn phòng của thuyền cho đến bờ sông, hỏi thăm người ta xem có ai biết có thuyền nào đi Thượng hải không—nhưng không có kết quả. Tất cả các tàu bè đều bị mắc cạn nơi đáy sông khô. Chúng phải nằm ụ ở đó chờ mưa xuống, nước dâng lên mới đi được. Có thể phải mất mấy tuần lễ trước khi chúng có thể di chuyển—nhưng anh thì chỉ còn đủ tiền tiêu khoảng năm ngày nữa thôi! Hi vọng gần như tiêu tan khi anh đột nhiên tìm được một chiếc thuyền chở thư từ, nhỏ hơn các chiếc thuyền nặng chở hàng đang đậu dọc theo bờ sông, các thuyền ấy đang đi dọc theo dòng nước hẹp vẫn còn chảy giữa đáy sông. Thuyền ấy đang đi về phía Kha-sinh Phú!
“Anh ơi!” Hudson bắt đầu chạy, quên cả mệt và chân đau. Chiếc thuyền đi trước anh cho nên anh phải chạy bộ theo gần hai cây số mới có người nghe tiếng anh gọi.
Anh kêu lớn, “Có phải anh đi về Kha-sinh Phú không?”
Họ đáp, “Không!”
“Anh có đi về hướng đó không?”
“Không!”
“Vậy anh có thể cho tôi quá giang về hướng đó bao nhiêu hay bấy nhiêu được không?”
“Không.”
Hudson đứng khựng lại, nhìn theo chiếc thuyền tiếp tục đi. Hi vọng cuối cùng tiêu tan! Anh cảm thấy phát bệnh, cơn ớn lạnh hình như đang chạy khắp người anh.
Anh nghĩ, “Có lẽ mình phải ngồi xuống nghỉ,” và anh ngồi phịch xuống trên bãi cỏ nơi bờ sông, rồi ngất đi. Mọi vật bỗng nhiên trở nên tối sầm lại.
Nằm như thế bao lâu anh không biết. Dần dần khi tỉnh lại thì anh nghe có tiếng người nói. Tiếng nói đến từ phía bên kia sông, và khi tỉnh hẳn thì anh biết họ đang nói về anh.
Có tiếng bảo, “Anh ta nói đặc giọng Thượng hải,”—đúng là giọng hoàn toàn Thượng hải! Rõ ràng là họ tưởng anh là người cùng thành phố với họ. Sau đó anh thấy có chiếc thuyền từ bên kia sông đi qua để chở anh. Họ mời anh lên thuyền.
Những người chèo thuyền tốt bụng rất thông cảm khi nghe chuyện của Hudson. Người đầy tớ của anh đã biệt tích mang theo luôn tất cả hành lý của anh. Anh đã hết sức tìm kiếm người ấy trong hai ngày nay và bây giờ anh chỉ còn đủ tiền để đi về Thuợng hải—mà lại không tìm được thuyền! Họ thương hại nhìn ông giáo sĩ người Âu châu đang mệt mỏi, ăn mặc giống y như họ và nói ngôn ngữ họ lưu loát như người bản xứ. Và sau khi anh uống ít trà, họ lấy nước ấm cho anh ta rửa chân thì họ rất sửng sốt vì thấy chân anh bị phồng cả. Nhưng tất cả những khó khăn của anh ta đang kết thúc. Người chủ thuyền cho anh ta thức ăn, tìm cho anh một chiếc thuyền đi về Thượng hải và ngỏ ý trả tiền vé cho anh nếu cần. Hình như những nỗi bất hạnh của anh sau cùng đã xoay chiều.
Khi trở về Thượng hải, Hudson đi tìm hỏi về người đầy tớ đã biến dạng với hành lý của anh. Hay là người ấy đang gặp rắc rối vì bị bắt giữ bởi những viên chức không mấy thiện cảm với người Trung hoa nào làm việc cho người Tây phương cũng không biết chừng? Hay là anh ta chỉ muốn đánh cắp các hành lý ấy rồi bỏ trốn? Mãi một thời gian lâu Hudson mới nhận thấy rằng giả thuyết thứ hai có vẻ đúng cho nên có người gợi ý là Hudson nên nhờ pháp luật giải quyết! Người ta bảo anh là một người như thế phải bị trừng trị, và Hudson đồng ý trên nguyên tắc. Tuy nhiên còn có một điểm khác cần lưu ý. Nhiều lần chính Hudson đã giảng cho các người đầy tớ của mình về tình yêu của Thượng Đế, về sự tha thứ của Chúa Giê-xu đã tỏ ra ngay cả cho những người đã đóng đinh Ngài vào thập tự giá. Đây là cơ hội để chứng tỏ tinh thần tha thứ ấy bằng cách lấy thiện trả ác. Cho nên thay vì giao nội vụ cho một vị quan Trung hoa xét xử, Hudson viết một bức thư cho người đầy tớ ấy, nêu cho anh ta thấy anh ta đã sai lầm như thế nào và khuyên anh ta thay đổi. Hudson nghĩ rằng làm cho lương tâm anh ta bị cáo trách để anh quay trở về cùng Thượng Đế và cho linh hồn anh ta khỏi đi vào hỏa ngục còn tốt hơn là chính anh tìm lại được hành lý! Nếu hành động tha thứ nầy của anh có tác dụng tốt trên người ấy thì dù cho Hudson có mất gấp đôi số tiền ấy đi nữa—giả sử như anh có số tiền ấy mặc dù anh không có, anh cũng sẵn lòng! Sau khi gởi bức thư đi rồi, Hudson liền chuẩn bị bán số bàn ghế còn lại để bù vào số tài sản anh bị mất mát trước khi anh lên đường đi Ninh phố một lần nữa.
Nhưng ngay trước khi anh lên đường thì được tin một chiếc tàu chở thư từ Anh quốc mới vừa đến. Thường thường khi tàu chở thư đến là tin vui cho cộng đồng Âu châu đang trông ngóng và Hudson cũng như mọi người khác nóng lòng nhận các bức thư đang chờ anh ở văn phòng đại lý tàu. Anh phải nín chịu những cái nhìn khinh khi của mấy ông đội mũ lòng cao cũng đến nhận thư. Họ nhìn cái anh chàng người Anh kết tóc bính, ăn mặc kiểu Tàu với thái độ khinh khi rõ rệt. Nhưng anh đã quen chuyện ấy rồi! Anh nhận các lá thư rồi trở về nhà hăng hái xem qua. Có thể có thư từ mẹ anh, từ cô em gái Amelia, cho biết tin tức gia đình và tỉnh Barnsley chăng? Hay là may mắn hơn có thể anh nhận được thư từ Hiệp hội Truyền giáo Trung hoa trong đó có lương của anh chăng? Hay là có một bức thư từ Ben, bạn anh, nói rằng anh ta muốn đến cộng tác với anh chăng?
À! Đây là một lá thư với nét chữ quen thuộc. Đó là thư của ông Berger, người đang rất chú trọng đến công tác của vị giáo sĩ trẻ tuổi. Thư của ông ta lúc nào cũng mang vẻ trìu mến, giục giã lòng Hudson rất nhiều. Anh mở thư ra và đọc cho đến chỗ viết như sau:
“Xin anh nhận món quà kèm theo đây tượng trưng cho tình yêu của tôi và nhà tôi.” Món quà gì kèm theo đây? Hudson mở một mảnh giấy hồng kẹp bên trong lá thư và kinh ngạc khi thấy tấm chi phiếu ghi tên anh—với số tiền bốn mươi Anh kim (khoảng 200 mỹ kim) Hudson sững sờ nhìn tấm chi phiếu.
Một lần nữa phép lạ xảy ra! Một bằng cớ rõ ràng cho thấy Chúa biết rõ nhu cầu của anh. Anh đã mất số hành lý tương đương với số tiền ấy, và giờ đây anh có đúng món tiền nói trên để thay thế—một món tiền gởi từ Anh quốc sáu tuần lễ trước khi anh ta bị cướp đoạt! (Thật ra lúc đó anh cũng không biết rằng có một số tiền tương tự đang do một người khác gởi đến!) Anh rất vui vì anh đã không tìm cách trừng phạt người đầy tớ về tội đánh cắp tài sản của anh! Và một lần nữa anh lại khởi hành qua tỉnh Chư-cương xinh đẹp với nhiều vườn cây ăn trái, các đồi dốc, các cây liễu rủ, các ruộng lúa. Anh cảm thấy như một chú bé đang qua một kỳ thi nữa, và nghe tiếng khen của thầy mình, “Giỏi lắm!!”

Chương 11

CƠN ĐỘNG ĐẤT CỦA CÔ ALDERSEY

 

Cô Aldersey là một phụ nữ lạ lùng. Cả người Trung hoa lẫn người Tây phương ở Ninh phố đều đồng ý về điều ấy. Thật ra người Trung hoa xem cô ta quan trọng hơn ông lãnh sự người Anh là người mà họ quả quyết rằng phải vâng lệnh cô ta. Mà thật vậy! Phải chăng cô ta có ma lực không? Có phải rằng trận động đất xảy ra mới đây là do cô đã mở một cái chai bí mật trong đó có chứa một chất cực mạnh vào năm giờ sáng trên vách thành không? Và có phải những hiện tượng lạ lùng khác đều do ma lực của giáo viên khả kính Aldersey hay không? Chắc chắn Nữ hoàng Anh quốc, một phụ nữ đặc sắc, đã bổ nhiệm cô cai trị các thần dân của mình, những người đã đổ về hải cảng Ninh phố. Lẽ dĩ nhiên vị Lãnh sự Anh quốc cũng phải nghe lời cô ta! Người Trung hoa nói với nhau, cô Aldersey quả là một phụ nữ kỳ diệu.
Cả cộng đồng Âu châu cũng nghĩ như thế nữa. Tuy rằng họ không qui trách nhiệm cho cô về vụ động đất vì họ biêt rõ cái chai không có đựng chất gì có sức tàn phá lớn lao mà chỉ là muối có mùi hôi mà thôi nhưng họ cũng cảm biết mỗi ngày trong đời cô ta làm một cái gi đáng kể hơn thế nữa. Cứ mỗi sáng sớm vào lúc năm giờ là cô tản bộ trên vách thành, dù đông hay hạ, trời mưa hay trới tôt, dù trời có tối mịt cô cũng không thay đổi thói quen đó. Cô chỉ dặn người đầy tớ xách một cái đèn lồng đi theo cô, rồi cô đi ra như thường ngày. Năm giờ sáng! Nếu muốn cộng đồng Âu châu làm như thế chắc hẳn phải cần một chuyện gi mạnh hơn động đất nữa! Thật vậy, nếu chỉ có thế thì mọi người đều đồng ý rằng cô là một phụ nữ phi thường. Nhưng chưa hết. Là giáo sĩ tiền phong ở Ninh phố, người sáng lập trường Tin Lành đầu tiên cho nữ sinh ở Trung hoa, cô ta có khả năng làm việc khiến cho những người yếu kém choáng váng. Cô có thể vừa ăn vừa nghe các học sinh trả bài cho cô. Còn nói đến ngày nghỉ thì hầu như cô chẳng có ngày nào. Các giáo sĩ khác có thể đi xuống bờ biển để lấy lại sức sau khi làm việc mệt nhọc nhưng cô Aldersey hưởng gió biển bằng cách trèo lên tầng thứ chín của một ngôi chùa rồi thở hít gió biển…. Một số học sinh đi theo cô cho nên cô có thể san sẻ sự hiểu biết cho các em ấy mà không bị gián đoạn. Thật là một phụ nữ xuất chúng. Và nếu vị Lãnh sự Anh quốc không hoàn toàn làm theo điều cô muốn thì ông ta chắc không dám cho cô biết!
Thật không may cho Hudson vì một người có ảnh hưởng, đáng nể và đáng sợ như cô Aldersey lại không thích anh một cách sâu xa ghê gớm. Đúng như thế. Chỉ cần nói đến tên anh ta cũng đủ làm cho thân hình mảnh mai của cô ta cứng lại vì một mối giận dữ rất chính đáng, theo ý nghĩ của cô. Hudson Taylor dám táo bạo, gan dạ mà ngỏ lời cầu hôn với cô Maria!

(More…)

GS PHAM QUANG TAM

Mọi bài vở cộng tác và góp ý xin gửi về info@nguonhyvong.com
www.nguonhyvong.com