Chương 7
ĐẾN TRUNG HOA

Sau khi trải qua những thích thú và nguy hiểm của những ngày đầu tiên ấy, Hudson thấy vui sướng lúc chiếc tàu đi vào vùng thời tiết ấm áp và yên tĩnh hơn. Đồ đạc của anh ướt sũng nước biển, nay bắt đầu khô. Hết tuần nầy đến tuần khác, tháng nầy qua tháng nọ, chiếc tàu Dumfries nhỏ bé lướt qua các đại đương, trước hết là Đại tây dương khi tàu chạy dọc theo bờ biển phía tây châu Phi, băng qua Ấn độ dương tiến đến cách Úc châu khoảng 200 cây số, rồi qua các eo biển nằm giữa các hải đảo thuộc vùng Đông Nam Á dẫn tới Thái Bình Dương. Cũng trong thời gian băng qua các hải đảo ấy mà Hudson học biết rằng cái nguy hiểm trong khi mọi việc êm xuôi cũng trầm trọng không kém gì khi đang bị gió đưa đẩy!

Suốt nhiều ngày các cánh buồm của chiếc tàu nhỏ ấy rũ xuống trên những cột buồm vì không có chút gió nào thổi. Nhiều lần tàu chỉ đi được có mười cây số trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Và mặc dù ai cũng thích nhìn thấy các hải đảo có cây chà là nơi chân trời, hay nhìn các con cá vùng nhiệt đới phóng lên khỏi mặt nước, cuộc hành trình bắt đầu cảm thấy buồn chán. Năm tháng trôi qua kể từ lúc Hudson lên tàu từ bến Liverpool. Anh thuộc từng sợi dây thừng, từng tấm ván trên sàn tàu của chiếc Dumfries. Bây giơ anh chỉ mong đặt chân lên đất liền trơ lại mà thôi!
Một sáng Chúa nhật nọ, đang lúc anh hướng dẫn buổi thờ kính trên bong tàu thì anh nhận thấy người bạn quí của mình, viên thuyền trưởng có vẻ lo âu. Ông ta ít chú ý vào buổi thờ kính hơn bình thường, và thỉnh thoảng ông bước tới lan can tàu nhìn qua mặt nước phẳng lặng. Không có chút gió nhẹ nào thổi. Sau đó khi các thủy thủ đã giải tán, Hudson đứng một mình với viên thuyền trưởng thì anh mới hiểu lý do tại sao ông ta lo âu. Chiếc tàu đang bị một dòng nước mạnh lôi về những tảng đá ngầm. Nếu không có gió thổi vào buồm thì không có cách nào chống lại được sức nước ấy cả.
Viên thuyền trưởng bảo, “Chúng ta đã đến quá gần các tảng đá ngầm rồi cho nên tôi không tin rằng hết chiều nay chúng ta có thể an toàn tính mạng được.” Vào lúc mặt trời lặn thường thường có cơn gió nhẹ nổi lên, nhưng nếu đến lúc ấy thì chiếc tàu có lẽ đã lao vào đá ngầm lởm chởm mất rồi. Một hi vọng duy nhất là hạ một chiếc thuyền cứu cấp xuống và cố gắng kéo chiếc tàu ra khỏi chỗ hiểm nguy. Tuy nhiên những nỗ lực của các thủy thủ, dù họ đã chèo hết sức, chẳng đi đến đâu. Dòng nước quá mạnh đến nỗi họ không thể nào làm chiếc tàu quay đầu được.
Viên thuyền trưởng đứng im lặng bên cạnh Hudson, rồi thốt lên một câu nói thẳng thắn:
“Thôi, chúng ta đã làm hết sức rồi. Bây giờ chỉ có thể chờ thôi…”
Bỗng nhiên Hudson nẩy ra một ý. Nếu ngọn gió thường thổi vào lúc mặt trời lặn mà thổi ngay bây giờ thì họ sẽ thoát nguy. Và mặc dù họ không có quyền lực gì trên sóng gió—Thượng Đế có quyền ấy—Ngài có thể khiến cơn gió thổi sớm hơn.
Anh nhẹ nhàng bảo, “Còn một điều chúng ta chưa làm.”
Viên thuyền trưởng hỏi lại, “Vậy à? Điều gì?”
Họ chưa cầu nguyện. Đó là điều họ chưa làm. Viên thuyền trưởng im lặng. Hudson nói tiếp. Trong số các thủy thủ trên tàu, có bốn hay năm người tin Chúa và tin rằng Ngài nghe lời cầu nguyện. Anh đề nghị. “Mỗi người trong chúng ta đi về buồng của mình và đồng ý cầu nguyện xin Chúa cho cơn gió nhẹ thổi đến ngay bây giờ. Ngài có thể cho cơn gió thổi đến dễ dàng ngay bây giờ thay vì thổi vào buổi chiều…”
Viên thuyền trưởng hơi ngạc nhiên về đề nghị ấy nhưng sau giây phút do dự, ông ta đồng ý. Ông bảo, thôi thế thì chúng ta làm đi. Ông sẽ về phòng mình cầu nguyện, còn Hudson sẽ tìm một đồng bạn, người tiếp viên, anh thợ mộc người Thụy điển và đề nghị họ cầu nguyện. Trong số những thủy thủ trên tàu, mấy người ấy là những người kính sợ Chúa. Họ cần làm điều cuối cùng mà họ chưa làm để cứu chiếc tàu.
Hudson mới vừa cầu nguyện trong phòng có mấy phút thì bỗng nhiên anh cảm thấy chắc chắn Chúa sẽ sai cơn gió đến cho nên anh đứng dậy, đi lên bong tàu và đề nghị với viên phó thuyền trưởng nên mở các góc của cánh buồm chính.
Viên phó thuyền trưởng ngạo nghễ hỏi lại, “Làm như thế để làm gì?” Dĩ nhiên ông ta có lý vì ông cho rằng ông biết lúc nào phải mở cánh buồm hơn là anh chàng trên đất liền đang đứng trức mặt ông ta!
Hudson giải thích, “Chúng ta đã cầu nguyện Chúa sai cơn gió đến và cơn gió đang đến ngay bây giờ!”
Viên phó thuyền trưởng khịt mũi. Ông ta đáp sẵng giọng, “Tôi muốn thấy gió hơn nghe về gió.” Nhưng theo bản năng ông ta liếc nhìn lên các cánh buồm, và Hudson nhìn theo thì thấy cánh buồm trên cùng đang phấp phới.
Anh kêu lên thích thú, “Hãy nhìn cánh buồm trên cùng kìa! Gió đang thổi đến!”
Viên phó thuyền trưởng không tin bảo, “Ô mới chỉ là một hơi thở thôi!” Tuy nhiên ông ta kêu một hiệu lệnh lớn thì trong vòng chưa đầy một phút, những thủy thủ đi chân không chạy vội qua bong tàu, trèo lên các dây thừng buộc buồm. Những tiếng hoạt động ồn ào bất ngờ trên bong tàu khiến viên thuyền trưởng đi lên khỏi buồng để xem chuyện gì. Ông thấy các cánh buồm phập phồng trong gió, trong khi chiếc tàu từ từ quay khỏi đá ngầm và chạy với tốc độ sáu hay bảy hải lý một giờ! Và chàng Hudson Taylor trẻ tuổi đứng đó, mắt đẫm lệ vì vui mừng, lòng anh tràn ngập lời cám ơn, anh thầm hớn hở trong Chúa của anh, Đấng đã đáp lời cầu nguyện.
Chưa đầy một tháng sau thì tàu Dumfries đã bỏ neo ơ đảo Gutzlaff để chờ viên hoa tiêu từ đất liền ra lái đưa nó lên cửa sông để cập bến Thượng hải. Anh đã bỏ đàng sau bầu trời trong sáng và những màu nước xanh của vùng khí hậu ấm áp. Giờ đây trong khi anh đang đứng tựa vào lan can, Hudson không trông thấy gì cả ngoài sương mù dầy đặc và dòng nước lờ đờ của sông Dương Tử chảy xiết, con sông đã khắc lòng sông lâu đời bắt nguồn từ cao nguyên huyền bí Tây tạng qua những bình nguyên phì nhiêu, đông dân của Trung hoa để sau cùng đổ vào Biển Trung Hoa sôi động.
Hudson nhìn chung quanh mình, cố gắng để thấy vùng đất mà anh đang đi đến. Sương mù dầy quá chưa cho phép anh thấy được bờ sông dài và thấp, nhưng đang khi anh nghiêng mình qua lan can thì anh có thể thấy được bóng dáng mờ mờ của các tàu bè khác, những chiếc thuyền dị kỳ mang một cánh buồm khổng lồ duy nhất trên cột, với thân tàu uốn cong vẽ những hình thù kỳ dị bên hông. Không thể lầm lẫn được vì rõ ràng đó là những chiếc thuyền nan Trung hoa mà anh thường học trong các sách giáo khoa có hình ảnh về Trung Hoa ở Barnsley, quê nhà anh! Giờ đây anh đã được thấy chúng tận mắt, và đang khi anh nhìn thì có một chiếc đi gần anh khiến cho anh có thể thấy được những người trên tàu. Họ ăn mặc những áo quần dệt ở nhà rộng thùng thình, da họ màu vàng, mắt đen và sâu kín, tóc dài và mỏng kết bính—đúng là người Trung hoa! Lần đầu tiên anh được nhìn vào gương mặt của những người thuộc một dân tộc vĩ đại mà Chúa đã sai anh đến và là những người mà anh sẽ sống suốt đời với họ. Anh không biết một tiếng nào của ngôn ngữ họ, và những gương mặt thản nhiên lạnh lùng không phản ảnh được tí nào cảm nghĩ bên trong của họ. Anh tự hỏi, làm thế nào mà anh có thể bắt đầu học nói ngôn ngữ ấy. Khi lên bờ thì anh sẽ phải sống ở đâu nơi vùng đất chưa quen biết nầy? Làm sao anh có đồ ăn vì anh không biết phải nói làm sao! Anh đi đi lại lại trên bong tàu, lùng bùng về những băn khoăn ấy giữa những áo quần ấm áp, cho đến khi những tư tưởng miên man của anh bị gián đoạn vì những hoạt động bất ngờ trên bong tàu.
“Người hoa tiêu! Người hoa tiêu đã lên tàu!” Thật thích thú! Lần đầu tiên sau năm tháng rưỡi bây giờ mới có một người cho họ biết tin tức về thế giới bên ngoài! Lần đầu tiên sau năm tháng rưỡi, bây giơ mới có một người Anh khác bước lên chiếc cầu nối trên tàu! Hình như mọi người trên tàu đều chạy lên bong để nhìn ông hoa tiêu. Và ông ta cung cấp cho họ tin tức rất quí giá! Lần đầu tiên sau năm tháng rưỡi vượt đại dương, hoàn toàn bị cắt đứt với thế giới bên ngoài, thì Âu châu đang sôi động vì chiến tranh. Ngay tại Trung hoa cũng đã có chiến tranh—cuộc nội chiến giữa quân phản loại đông đảo càn quét từ miền nam tiến lên chống lại quân đội hoàng gia đổ xuống từ miền bắc. Nhưng biến chuyển có ảnh hưởng quan trọng nhất đối với Hudson là thành phố Thượng hải lại nằm giữa cuộc xung đột! Quân phản loạn chiếm thành phố, còn thành phố thì bị khoảng năm mươi ngàn quân đế quốc vây hãm. Thực phẩm đã trở nên đắt đỏ như thời kỳ túng đói, và hối xuất cũng lên cao. Một đồng bảng Anh trước kia đổi được năm mỹ kim Trung hoa, bây giờ chỉ đổi được có ba mỹ kim!
Vì thế mà hôm sau khi anh bước lên bờ thì anh có cảm giác phức tạp, lúc anh đi theo người hướng dẫn để đi tới toà lãnh sự Anh quốc thì anh phải qua những toán lao công Trung hoa hung hăng hò hét. Giờ đây anh đã đặt chân lên đất Trung hoa! Thật thích thú. Nhưng khi anh rón chân bước qua bùn thì anh bắt đầu biết được những khó khăn phải đối phó. Chẳng có ai chờ anh mà anh cũng chẳng có một người bạn nào ơ cả thành phố Thượng hải, và anh lại cũng không có bao nhiêu tiền. Tuy nhiên anh có 3 bức thư giới thiệu với những người ở Thượng hải mà anh dự định trình cho họ thật sớm. Ngoài chuyện ấy ra vì bây giờ anh đã đến nơi rồi mà anh không biết phải làm gì! Những hiểm nguy của cuộc hành trình trên biển giờ đây bỗng nhiên hình như trơ thành không nghĩa lý gì đối với cảnh cô đơn cùng cực đang hãm bắt anh. Bước chân vào lãnh sự quán, khi anh hỏi thăm về những người anh muốn trao thơ giới thiệu thì các câu trả lời chỉ làm cho anh khốn đốn thêm.
Anh được biết người đầu tiên đã qua đời một hai tháng trước vì bệnh sốt rét. Người thứ nhì đã trở về Mỹ. Chỉ còn người thứ ba là hình như còn đang ơ Thượng hải. Bức thư giới thiệu cho người nầy do một người hầu như xa lạ trao cho Hudson! Lòng anh nặng trĩu khi anh bắt đầu lên đường đi đến khu vực của Hội Truyền Giáo Luân đôn.
Anh đi bộ hơn hai cây số qua các phố xá càng ngày càng hẹp khi anh rời khu vực người Âu châu. Những mái nhà uốn cong, các bao lơn nhô ra, những hàng nhỏ xíu, tối tăm trước cửa treo các bản hiệu xoay đưọc vẽ hình tỉ mỉ, tất cả đều xa lạ đối với chàng thanh niên từ vùng Yorkshire đến. Đi đâu anh ta cũng bị các đám đông người Trung hoa mắt đen, sâu sắc, nghiêm nghị bu quanh. Các phu gánh giỏ qua vai kêu lên như ca hát cho dân chúng tránh né qua một bên khi họ len lỏi giữa đám đông. Đàn ông kết tóc bính đang ngồi trước các cửa hàng hay tiệm ăn dọc theo hai bên phố xá chật hẹp. Những người bán dạo các thức ăn nóng hổi, ngon lành đứng cạnh các xe đẩy, sẵn sàng dọn thức ăn ra liền nếu khách đặt mua. Thỉnh thoảng dân chúng dạt qua một bên để tránh đường cho một cái kiệu do các phu vừa khiêng vừa chạy, xong rồi đám đông trở lại như cũ sau khi kiệu đã đi qua. Trong những năm tới Hudson phải tập quen dần với những cảnh tượng như thế để chúng trở thành quen mắt giống như khu phố chợ ở quê nhà. Tuy nhiên trong ngày đầu tiên nầy nơi đất Tàu, cái gì trông cũng không có vẻ thật, hầu như hay lạ đối với anh. Sau cùng khi anh bước vào khu Truyền giáo có hai cổng to thì anh cảm thấy nhẹ nhõm tuy rằng hơi lo ngại.

Nhân viên gác cổng người Trung hoa, hai tay giấu trong ống tay áo lễ phép cúi chào chàng thanh niên người Âu.

“Thầy cần gặp ai?”

Hudson đưa ra thư giới thiệu và xin gặp bác sĩ Medhurst.

“Bác sĩ không có nhà. Ông ta đi vắng rồi.” Anh gác cổng cung kính nhưng lạnh lùng, cúi chào lần nữa.

Hudson hỏi, “Ông ta đi đâu vậy?” Nhưng anh gác cổng, có lẽ đã dùng hết vốn liếng Anh ngữ của mình, tỏ ra không hiểu.
Thế nầy thì quả là kẹt thật! Đã chiều rồi, chỉ còn ít lâu nữa là trời tối. Một thân một mình giữa một thành phố xa lạ, anh không biết phải làm gì bây giờ? Một lần nữa anh tìm cách làm cho người gác cổng hiểu nhưng không được. Lúc gần bỏ cuộc thì anh mừng quá khi thấy một người rõ ràng là gốc Âu châu đang đi ngang qua sân. Hudson vội vàng tự giới thiệu.
Người thanh niên kia bảo, “Tôi là Edkins. Bác sĩ Medhurst không có đây nhưng đồng nghiệp của ông ta thì có. Tôi chắc hẳn ông ấy sẽ rất hân hạnh giúp đỡ ông. Xin mời ông vào và ngồi chờ để tôi đi tìm ông ta…
Đêm ấy khi Hudson đi ngủ, thì anh ta không phải nằm trên cái giường gỗ trong căn phòng nhỏ trên chiếc tàu Dumfries, hay trong quán trọ Trung hoa ở giữa những người nói một ngôn ngữ mà anh không hiểu, nhưng anh được nằm trên một cái giường êm ái, sạch sẽ, trong một căn phòng rộng, thoáng mát của Khu vực Hiệp hội Truyền giáo.


Chương 8

THÀNH PHỐ BỊ VÂY HÃM

Ba giáo sĩ trẻ tuổi vui vẻ nhưng dè dặt ngồi xuống trên một chiếc thuyền nan bản xứ đang cập bờ sông bùn lầy. Họ lau mặt đang khi anh lái thuyền đẩy thuyền ra khỏi bờ. Quả là một ngày bận rộn. Khởi hành từ Thượng hải sau khi ăn sáng, khoảng trưa thì họ đến đảo Hoa trung, và từ lúc đó đến nay họ không ngừng phân phát các truyền đạo đơn và mặc dù vốn liếng ngôn ngữ của họ chẳng có bao nhiêu, họ vẫn cố gắng nói chuyện bằng tiếng Trung hoa với những người chèo thuyền dọc theo bờ. Các chiếc thuyền nan chèo ngược xuôi theo các con sông quanh Thượng hải thật nhiều vô số. Các gia đình lớn nhỏ, mới và cũ sống trên các căn nhà nổi trên mặt nước ấy. Các gia đình ấy thu hút Hudson và hai đồng bạn, Edkins va Quarterman.
Họ bảo nhau, “Chúng ta nên làm chứng cho những người nầy về Chúa Cứu Thế.” Làm sao mà những người thờ hình tượng nghèo khó nầy, với những bàn thờ nhỏ và các bó nhang trong nhà quay khỏi sự thờ hình tượng và dị đoan nếu họ chưa bao giờ nghe đến Một Thượng Đế Chân thật? Vì thế họ dành trọn một ngày để hoạt động truyền giáo giữa những người ấy, ngoài ra còn mừng vì được rảnh một vài tiếng đồng hồ, khỏi phải vất vả học tiếng Trung hoa. Họ rất hài lòng vì đang được nghỉ xả hơi, nghe tiếng sóng vỗ vào mạn thuyền như ru ngủ. Những người sống trên các thuyền nan mà họ đã gặp đều vui vẻ nhận các sách nhỏ xinh xinh, viết bằng tiếng mẹ đẻ của họ. Thậm chí có một vài người cam đoan với các vị giáo sĩ trẻ tuổi rằng sau khi họ đọc xong, họ sẽ chuyền tay cho người khác đọc nữa là những người họ gặp ở các bến mà họ đến. Thật là một ngày ích lợi và giờ đây khi chiều đang xuống, nếu họ an toàn qua khỏi được Đội Tuần Duyên của Hoàng gia thì họ có thể về đến Thượng hải trước khi trời tối.
Vấn đề là làm sao họ qua khỏi Đội Tuần Duyên Hoàng gia an toàn. Các người chèo thuyền dĩ nhiên lo ngại về điều đó và bực mình vì các ông khách quí chờ đến quá trễ mới chịu về. Ban ngày thì các thuyền nan bản xứ đi lại trên sông khá dễ dàng nhưng bồng bềnh trên sông vào buổi tối ngay dưới các họng súng của Hoàng gia là một việc khác. Súng của hoàng gia có thể bắn bất cứ lúc nào, nhiều khi chẳng cần bị khiêu khích nữa. Vì thế những vật gì di động trên nước vào lúc tối đều bị ngờ là thuộc phe phản loạn. Khi bắt đầu trở về đã quá trễ cho nên các người chèo thuyền không vui mấy. Chính các vị giáo sĩ cũng hơi e ngại.
Hudson bảo, “Nếu họ biết mình là người Anh và người Mỹ thì không sao.” Vì các cường quốc Tây Phương trung lập có những chiến hạm đang thả neo trên hải cảng và các binh sĩ võ trang của các chiến hạm ấy sẵn sàng bảo vệ mạng sống và tài sản họ nếu họ bị tấn công cho nên họ có thể đi lại khá an toàn. “Nhưng làm sao các lực lượng Hoàng gia phân biệt được khi tối trời?” Làm sao? Trong bóng tối thì làm thế nào thấy được da trắng, tóc nâu? Chỉ khi lên tiếng thì người ta mới biết họ không phải là người Trung Hoa thôi. Chỉ khi nào nói lên…Bỗng nhiên Edkins nẩy ra một ý kiến.
Edkins bảo, “Tôi có ý kiến nầy. Chúng ta sẽ hát. Tất cả mọi người cùng hát chung, hát thật to bằng tiếng Anh thì họ sẽ biết chúng ta là người Tây phương!” Ý kiến ấy thật hay. Cổ họng họ khô và rát vì suốt ngày hôm ấy họ đã hát và nói rất nhiều trong khi đi làm chứng. Nhưng họ vẫn cố gắng. Và mỗi khi họ đến gần các chiếc tàu trông có vẻ của Đội Tuần Duyên Hoàng gia thì họ lại hát lên những bài ca ấy. Họ hát chung những bài nào họ thuộc và mừng khi thấy rằng họ đã vượt qua hết tàu nầy đến tàu khác mà không bị xét hỏi gì.
Họ vừa im lặng khi qua khỏi chiếc tàu cuối cùng, bỗng nhiên các anh lái thuyền vội vàng bảo, “Các ông hãy hát nữa đi! Hát nữa đi!” Nhưng tại sao lại hát? Họ được báo cho biết là những chiếc tàu họ vừa qua khỏi chỉ là những chiếc tàu hàng, không có gì đáng ngại. Các người chèo thuyền thì thầm, “Nhanh lên, hát đi! Hát đi!”
Edkins trổi giọng, “Bầu trời bao la trên cao kia,” rồi bật lên bài ca, hai đồng bạn phụ họa với anh. Trên sông ba giọng trẻ trung ngân lên, ca rằng, “bầu trời xanh lung linh, bóng mặt trời không ngơi, mặt trăng và các ngôi sao quanh nó cháy sáng, chúng hoan ca và trổi tiếng reo vui vinh hiển. Chúng mãi ca hát và chiếu rạng. Bàn tay đã tạo nên chúng ta là Bàn tay thiên thượng!’ ”
Cần phải có ba câu, tám dòng mỗi câu mới diễn tả đủ bài hát, và dòng cuối thì hát hai lần mới hết ý. Nhưng rủi thay, họ hăng hái hát đến câu cuối cùng thì cũng vừa lúc họ đi ngang qua chiếc tàu lớn nhất trong đội Tuần Duyên! Sau khi hát câu, “Bàn tay đã tạo nên chúng ta là Bàn tay thiên thượng!” rồi thì im bặt vì ba ông ca sĩ đang ngồi thở hổn hển sau khi ráng sức. Rồi bỗng họ nghe trên chiếc tàu Hoàng gia có tiếng gồng báo động đánh loạn lên một cách đe doạ!
“Rồi sao nữa?” Edkins kêu lên. “Chúng ta phải tiếp tục hát. Không được bỏ lỡ giây phút nào!” và không cần gợi ý, anh ta bắt đấu hát trở lại. Đồng thời Hudson bắt đầu một bài ca khác, trong khi Quarter, có lẽ đã được cảm hứng, kêu lên, “Hãy thổi kèn, thổi lên!” với giọng vui tươi! Tuy nhiên, lỗ tai của những người nghe bài hòa âm ấy lại không được như ý! Các binh sĩ trên tàu chiến la lớn, và hình như trong vài giây phút, mọi người đều la lớn theo đủ kiểu. Đoàn Tuần Duyên Hoàng gia, nghi rằng đây là âm mưu ám muội gì của bọn phản loạn đây nên chuẩn bị chiến đấu. Còn về phần các giáo sĩ, khi biết rằng các họng súng có thể đang chĩa về phía mình, bỗng nhiên họ nghe một giọng nghiêm nghị hỏi vọng từ trên tàu xuống:

(More…)

GS PHAM QUANG TAM
Mọi bài vở cộng tác và góp ý xin gửi về [email protected]
www.nguonhyvong.com