Chương 4
MẠNH SỨC NHỜ CẦU NGUYỆN
Phản ứng đầu tiên của Hudson sau khi nghe ông bác sĩ tuyên bố câu ấy là buồn rầu và chán nản. Nếu anh chết thì dĩ nhiên anh không thể đi Trung Hoa. Trung Hoa! Anh ao ước từ lâu được đi sang đó! Từ lâu anh tin chắc Chúa đã giao cho anh một trọng trách ơ xứ ấy! Anh không thể nào lầm lẫn được. Rồi ý tưởng muốn sang Trung Hoa đến với anh—lẽ nào anh bị lầm lẫn chăng? Anh nghĩ, nếu Chúa dự liệu cho mình đi Trung Hoa thì mình phải khỏi bệnh dù cho bác sĩ bảo là tình trạng mình hoàn toàn vô vọng.

Anh tìm cách giải thích hiện tượng nầy. Anh không sợ chết. Thật ra viễn ảnh được gặp Thầy mình là đấng anh yêu dấu thì đó là một điều đáng mừng. Tuy nhiên anh tin chắc anh có công tác phải làm cho Ngài ở Trung Hoa trước, nên anh phải cố gắng vượt qua cơn bệnh nầy.
Ông bác sĩ sốt ruột tiếp, “Như thế rất tốt.” Nhưng bây giờ không phải là lúc mà chàng sinh viên trẻ tuổi biện luận rằng tại sao anh ta phải sống trong khi rõ ràng là anh ta sắp chết! Ông bảo, “Anh phải kêu tắc xi đưa anh về nhà gấp vì anh không còn thì giờ nữa đâu. Chưa chắc anh còn đủ thì giờ để thu xếp việc nhà là khác…”

Chẳng có động lực gì để mà vội vàng, hơn nữa anh cũng chẳng có đủ tiền để trả tắc xi cho đoạn đường sáu cây số về nhà. Khi Hudson bước ra thì anh mỉm cười chua chát. Anh chậm chạp lê bước trên đường để đến chỗ anh có thể lên xe buýt và uể oải bước lên xe mà cánh tay vẫn còn cảm thấy đau buốt trong khi chiếc xe nặng nề lăn bánh cọc cạch trên đường. Sau khi về đến phòng trọ và chậm chạp trèo lên ba loạt thang để tới gác xép của anh thì anh mệt lả. Nghĩ rằng anh có thể làm cho tình trạng của anh đỡ hơn nên anh lấy dao rạch ngón tay để chất độc rỉ ra một ít. Vẫn còn đau buốt—và đó là điều cuối cùng mà anh nhớ. Sau đó anh té xuống sàn nhà bất tỉnh.

* * *

Suốt mấy tuần Hudson nằm liệt giường, quá yếu không cử động được. Khi người ta khám phá anh gần chết trên sàn nhà thì có người cho gọi ông chú của anh, làm nghệ sĩ, ở gần đó đến. Ông ta là người tốt bụng, bằng lòng chăm sóc cho anh bằng cách cho gọi bác sĩ đến ngay mặc dù Hudson không chịu và bảo rằng anh ta không có đủ tiền trả.
Ông chú anh trấn an, “Ông ta là bác sĩ của chú cho nên tiền bạc chú sẽ thanh toán giùm cho cháu. Cháu đừng lo.” Nhưng khi bác sĩ đến và nghe kể lại bệnh trạng của Hudson thì ông ta tỏ ra e ngại thật sự.
Ông bảo thẳng Hudson, “Nếu anh xưa nay sống điều độ thì anh có thể lành được. Nhưng nếu anh hay dùng bia hay các loại tương tự, tôi e rằng không có mảy may hi vọng gì…”
Biết rõ rằng thực đơn của mình xưa nay chỉ gồm có táo, bánh mì nâu và nước lạnh cho nên Hudson có thể đoan chắc với ông bác sĩ về điểm điều độ! Nếu chuyện bình phục của anh tùy thuộc vào việc tránh nhậu nhẹt thì chắc chắn chẳng có ai có hi vọng sống sót bằng anh nữa!
Ông bác sĩ bảo, “Nhưng bây giờ là cả một cuộc chiến đấu nhọc nhằn. Anh phải làm đủ cách để duy trì sức khoẻ.” Ông bảo chú của Hudson, “Mỗi ngày anh ta phải uống một chai rượu chát và ăn thịt sườn càng nhiều càng tốt!” Hudson vốn không khoái loại thực đơn ấy nhưng cũng cố gắng dùng, và sau nhiều ngày và đêm khốn khổ, cuối cùng anh có thể bước ra khỏi buồng ngủ và nằm vài giờ trên ghế bành của phòng trọ. Mãi đến lúc đó anh mới nghe tin rằng có hai sinh viên y khoa khác bị nhiễm độc cùng một lúc với anh đã qua đời. Tại sao mạng sống của anh vẫn toàn vẹn? Anh cảm thấy sở dĩ anh còn sống là vì anh có công tác phải lo ở Trung Hoa.
Một hôm lúc ông bác sĩ đến thăm và sau khi tỏ ra hài lòng về mức độ bình phục của bệnh nhân trẻ tuổi của mình, ông bảo,
“Việc tốt nhất cho anh bây giờ là khi nào anh cảm thấy đủ sức để đi thì anh nên về vùng quê tĩnh dưỡng. Anh phải nghỉ ngơi cho đến khi lấy lại sức khoẻ. Nếu anh bắt đầu làm việc quá sớm thì hậu quả sẽ vẫn còn trầm trọng đó.”
Sau khi ông bác sĩ đi rồi Hudson nằm trên ghế bành và duyệt lại tình cảnh của mình. “Đi về vùng quê.” Anh chợt nghĩ ngay đến căn nhà ấm cúng, hạnh phúc của gia đình anh ở tỉnh Yorkshire; có con dường Cudworth mà lúc nhỏ anh đã chạy đua, đánh vòng, và trêu chọc cô Amelia trong khi cô ta hết hơi đuổi theo anh, lọn tóc xoăn bồng bềnh; anh nhớ các khoảng trống dâm mát giữa rừng Lunn, nơi bướm lượn và nhiều tổ chim, xa xa là rặng núi Pennines. “Đi về vùng quê.” Lời khuyên của ông bác sĩ thật hấp dẫn, nghe thật xuôi tai và ấm lòng! Hudson biết rằng anh hãy còn quá yếu chưa thể trở lại cuộc sống vất vả trong bệnh viện, và dĩ nhiên không có nơi nào giúp anh chóng bình phục bằng ơ nhà mình. Chỉ còn có mỗi một trở ngại là anh không có tiền trả vé xe về nhà.
Thật ra anh ta biết rõ là nếu anh mở miệng xin thì tiền sẽ có ngay. Ông chú tốt bụng sẽ chắc chắn sẵn lòng gởi tiền cho anh. Hay nếu anh viết thư về nhà tỏ chút dấu hiệu cần tiền thì chắc chắn vé xe hơi và tiền sẽ được gởi đến anh ngay qua bưu diện. Đang nằm trên ghế bành, quá mệt mỏi vì lên xuống cầu thang, trong đầu anh tự nhiên lại có ý nghĩ từ chối chọn lối dễ đi và rõ ràng nhất. Anh vẫn muốn thí nghiệm phương pháp tập nhờ cậy Chúa đáp ứng lời cầu nguyện của anh thay vì nhờ cậy loài người. Lẽ dĩ nhiên là khi anh sang Trung Hoa thì họ đâu có ở bên cạnh anh để mà giúp. Anh nằm đó nhắm nghiền đôi mắt lại, thưa với Chúa về nhu cầu của anh và xin Ngài chỉ dẫn phải làm gì.
Sau đó anh nằm yên khá lâu. Anh nghĩ, nếu anh đã không ứng trước tiền cho bà Finch thì giờ đây anh đã có dư. Và nếu ông Finch không bỏ nhiệm sở trên tàu vào đúng lúc ấy thì anh đã có thể rút tiền ra được rồi. Rồi lại có ý tưởng nẩy ra trong đầu anh là nếu anh đi xuống văn phòng hàng hải rất có thể anh sẽ rút tiền ra được. Mặc dù triển vọng ấy có vẻ mơ hồ vì anh đã nhận trách nhiệm ứng trước cho bà Finch rồi, tuy nhiên ý nghĩ đó vẫn cứ vương vấn trong đầu anh.
Phải chăng Chúa đã đặt vào trí óc anh ý nghĩ đó? Hay chỉ là một ý nghĩ ngông cuồng của anh? Anh không biết rõ. Cho nên anh lại nhắm mắt cầu nguyện xin Chúa cho biết điều nào đúng. Vì nếu ý tưởng ấy không phải đến từ Chúa thì vấn đề còn lại vẫn là văn phòng hàng hải cách ba cây số và anh chẳng có tiền trả vé xe đến! Còn nói chuyện lội bộ đến đó là việc không thể làm được. Bước xuống cầu thang còn phải nhờ người giúp đỡ huống hồ đi bộ! Đúng, cuốc bộ là việc không thể thực hiện được—nhưng có thật đúng như thế không? Tự nhiên Hudson ngạc nhiên suy nghĩ, rất có thể làm được lắm. Chúa đã làm những điều kỳ diệu và bất ngờ sau khi anh cầu nguyện. Chính Chúa Giê-xu cũng đã nói, “Bất cứ điều gì các con cầu xin trong danh ta, ta sẽ làm cho để Cha được vinh hiển trong con.” (Giăng 14:13) Ngài đã nói những lời ấy hàng trăm năm trước và giờ đây đang khi Hudson nằm trong nhà trọ thì những lời ấy bỗng nhiên có vẻ thực tiễn và áp dụng được. Trong câu phán êm dịu ấy có một vẻ gì đáng tin. “Bất cứ điều gì các con cầu xin trong danh ta, ta sẽ làm cho.” Như thế thì anh nhận thấy rằng đi bộ xuống văn phòng hàng hải ở Cheapside không còn là việc không thể thực hiện nữa. Hiển nhiên là anh cần cầu nguyện Chúa thêm sức để đi. Nghĩ sao làm vậy. Anh bấm chuông gọi người giúp việc nhà trọ bảo mang lên cho anh ta chiếc mũ và cây gậy. Sau khi cô ta lễ phép trao các món ấy cho anh, cô ta hơi ngạc nhiên. Còn anh thì từ từ bước ra khỏi nhà trọ, quay sang khu phố yên tĩnh để vào khu phố bận rộn dẫn đến thành phố.
Tình trạng bình phục của anh khá chậm. Anh thích nhìn những món đồ trang trí qua các cửa hiệu, thỉnh thoảng phải dựa vào cửa kính để lấy sức. Các phụ nữ ăn mặc sang trọng đi vượt qua anh trong khi anh đang chậm chạp bước. Những người bán dạo kêu réo sau lưng anh để mời anh mua hàng. Anh cũng chẳng buồn quay đầu nhìn một chiếc xe ngựa sang trọng đang chạy lọc cọc trên đường. Thật vậy, dù cho nữ hoàng Victoria trẻ tuổi đi ngang qua thì chưa chắc làm cho anh quay đầu nhìn. Dần dần anh đi xong đoạn đường. Anh tự nhắc mình đã cầu xin Chúa thêm sức để đi đoạn đường ấy trong khi anh đang đứng trước ngọn dốc cao dẫn tới Cheapside, và anh tin Chúa sẽ vẫn ban cho anh đủ sức. Anh bước lên hết dốc ấy! Anh đến văn phòng hàng hải an toàn và ngồi trên bực thềm trước khi bước lên cầu thang đến lầu một. Anh nhận thấy ngồi bệt nơi chân cầu thang cũng là điều bất thường. Những ông ăn mặc quí phái, đội mũ lòng cao, hình như cũng nghĩ như thế. Họ hơi kinh ngạc nhìn anh như thể đang nghĩ, “Chà, anh chàng nầy cũng có vẻ phong lưu đấy…!” Tuy nhiên không ai nói với anh tiếng nào. Sau cùng anh lên cầu thang và bước vào văn phòng.
Thời điểm quan trọng là bây giờ đây.
Sau khi đi bộ mệt mỏi, lẽ nào bây giờ anh lại gặp chuyện thất vọng? Hudson trong thâm tâm vẫn cảm thấy rằng mọi việc rồi sẽ êm xuôi. Và quả y như thế! Người thư ký nhận ra anh ngay lập tức.
Ông kêu lên, “Ồ tôi rất vui ông đến hôm nay. Thật ra không phải ông Finch bỏ nhiệm sở mà một thủy thủ tráng kiện khác trùng tên. Tôi rất vui trao cho ông phân nửa tiền lương cho bà Finch tính đến hôm nay. Số tiền ấy sẽ đến tay bà ta qua ông an toàn hơn là qua chồng bà ấy. Chiếc tàu của ông ấy vừa cập bến Gravesend. Và chúng ta biết sau khi hành trình trên biển lâu như thế mà cập bến thì sẽ gặp không biết bao nhiêu là cám dỗ.” Ông quan sát anh sinh viên y khoa trẻ tuổi trông tái nhợt và rõ ràng là ốm yếu. Ông tiếp, “Nhưng trước khi tôi trao tiến cho anh, anh phải nghỉ ngơi và ăn một chút gì đã. Tôi sắp ăn trưa cho nên anh hãy bước vào trong ăn chung với tôi.”
Hudson sung sướng nhận lời mời tử tế ấy. Anh mừng vì có dịp nghỉ ngơi và ăn uống. Trên đường về Soho anh lại được đi xe buýt nữa! Bây giờ thì anh đã có đủ tiền rồi! Những cố gắng anh thực hiện hóa ra giúp đỡ anh nhiều hơn là làm thiệt hại cho anh. Sáng hôm sau, anh cảm thấy đỡ hơn cho nên anh không ngần ngại đi đến gặp bác sĩ để thanh toán phí tổn. Ông chú anh đã giúp anh quá nhiều rồi cho nên anh không muốn ông trả tiền bác sĩ cho anh nữa. Anh muốn dùng tiền riêng của mình để trả vé xe lửa đi về nhà tĩnh dưỡng dù anh biết rằng nếu anh tự trả tiền bác sĩ thì hầu như chắc chắn anh không còn đủ tiền để mua vé xe, nhưng anh cho đó là điều phải làm. Cho nên anh đi đến gặp bác sĩ. Đến đó anh lại gặp một chuyện ngạc nhiên lý thú khác. Ông bác sĩ từ chối không nhận tiền thù lao.
Ông cương quyết bảo, “Anh là sinh viên y khoa còn trẻ cho nên tôi sẽ không tính tiền.”
Hudson không chịu, hỏi lại, “Nhưng còn tiền thuốc thang thì sao…Chẳng hạn như thuốc ký ninh thì tôi phải trả chứ!”
Ông bác sĩ đáp, “Thôi được. Nếu thế thì tôi tính tiền ký ninh cho anh, nhưng chỉ có thế thôi.”
Hudson tính nhẩm thật nhanh đang khi trao số tiền nhỏ nhoi cho ông bác sĩ. Như thế anh còn đủ tiền mua vé xe lửa về Yorkshire rồi trả tiền xe buýt về nhà anh, đồng thời có tiền ăn dọc đường! Anh vô cùng hớn hở. Thật tuyệt diệu. Mỗi một bước đường anh thấy mọi việc được dự liệu thật hoàn hảo. Tự anh không thể tạo ra những việc ấy, điều đó chứng tỏ rõ ràng Chúa đảm trách việc sắp đặt cho cuộc đời anh. Và nếu Ngài đã làm cho anh như thế thì chắc chắn Ngài cũng làm cho những người khác nữa. Phải cho ông bác sĩ biết chuyện nầy.
Anh cung kính thưa, “Xin phép bác sĩ. Tôi có thể tự do trình bày một việc với bác sĩ mà không làm bác sĩ phật ý không? Tôi biết nhờ Chúa mà đời tôi được bác sĩ chăm sóc cho nên tôi rất biết ơn. Và còn một điều tôi muốn thưa với bác sĩ…” Rồi anh thuật lại lý do tại sao anh đến Luân đôn, dự định của anh là tìm xem quả thật Chúa có đáp lời cầu nguyện trước khi anh đi sang Trung Hoa hay không và những kinh nghiệm của anh khi làm điều ấy. Ông bác sĩ bình tĩnh nghe anh kể nhưng có vẻ hoài nghi cho đến khi Hudson cho ông biết anh đã lội bộ đến Cheapside ngày hôm trước. Điều nầy ông ta không thể nào tin được.
Ông kêu lên, “Không thể được. Khi tôi rời thì anh đang nằm liệt trên ghế bành dài đó, thân tàn như ma dại hơn là con người kia mà!”
Hudson cam đoan, “Dạ tôi lội bộ đó, thưa bác sĩ.” Anh giải thích cho ông biết anh đã cầu nguyện nhân danh Chúa Giê-xu để anh có đủ sức đi trước khi anh lên đường.
“Anh bảo rằng anh đi bộ—không phải anh đi tắc xi hay xe buýt à?”
“Dạ không. Tôi đi bộ.”
“Anh đi từ Soho đến đường Farrindon, rồi lên đồi Snow Hill đến Cheapside…”
“Dạ đúng vậy, thưa bác sĩ….”
Bây giờ ông bác sĩ lại chú ý thực sự. Chuyện một người bị bệnh quá yếu mà có thể một mình đi qua các phố xá đông đúc của Luân đôn mà không bị trầm trọng hơn là điều không thể tin được. Ông ta nghe kể lại về chuyện đi bộ để lấy số tiền ở văn phòng hàng hải, chuyện Hudson có đủ tiền để thanh toán các chi phí, và sau cùng, chuyện sau khi trả tiền thuốc ký ninh, anh ta chỉ còn có vừa đủ tiền để mua vé xe về nhà. Giọng điệu của Hudson có nét gì rõ ràng vui mừng và đáng thuyết phục khiến cho ông bác sĩ cảm động. Đối với ông, niềm tin thực tiễn vào một Thượng Đế mà không ai thấy, không ai nghe là điều mới lạ đối với ông. Những dòng nước mắt lạ thường từ từ chảy xuống trong khi ông nhìn nét mặt tươi vui kỳ diệu của chàng thanh niên đang đối diện với mình. Ông nói bằng một giọng hết sức cảm động:
“Tôi bằng lòng đánh đổi mọi thứ trên đời nầy để có một niềm tin như anh.”
Hudson khẽ đáp, “Dạ thưa bác sĩ, ông có thể có được niềm tin ấy. Đó là một đức tin miễn phí cho bất cứ ai—không tốn tiền, không phải trả giá nào cả.”

Chương 5

VỀ NHÀ

Chiếc xe ngựa chạy lọc cọc trên đường tráng đá dừng lại ở trung tâm khu phố chợ tỉnh Barnsley. Hành khách lần lượt xuống xe và sau cùng Hudson cũng xuống, trông hơi mệt mỏi vì đoạn đường khá dài từ Luân đôn. Mọi vật trông thật quen thuộc và trìu mến! Anh cảm thấy vui được ông cha nghiêm khắc nhưng nhân từ chào đón, cùng bà mẹ hiền hậu với mái tóc chải gọn dưới chiếc mũ vải cột qua cằm! Anh cảm thấy dễ chịu khi anh chống gậy đi dạo bên ngoài, gặp hết bạn nầy đến bạn kia vồn vã hỏi han, họ mừng vì gặp lại anh, và nóng lòng muốn nghe anh kể chuyện về đời sống của anh nơi thủ đô xa xôi ấy! Ở Luân đôn mọi việc đều khác hẳn. Ở đó anh chỉ là một người lạ không tên tuổi, ra đường phố bận rộn chẳng có một người nào chào hỏi để giúp anh lên tinh thần. Anh vẫn hãy còn yếu cho nên về nhà là nơi tốt nhất để anh nghỉ ngơi hoàn toàn và cảm thấy mãn nguyện. Anh ngồi cạnh lò sưởi trong phòng đàng sau cửa hiệu, nhìn cảnh vật quen thuộc làm anh hồi tưởng nhiều kỷ niệm êm đẹp thời niên thiếu. Chẳng hạn khi nhìn vào chiếc bàn to và chắc giữa phòng thì anh chợt nhớ lại khi còn bé, một hôm anh ăn mặc bộ đồ nhung đẹp nhất và ngồi nơi bàn ấy, xung quanh là khách khứa. Anh nhìn mẹ anh đang cắt những miếng bánh táo lớn, trao cho từng người khách nhưng lại không ngó ngàng gì đến cậu con đang lễ phép yên lặng ngồi đó vì anh được dạy như thế, anh chờ mãi mà không thấy phần của mình đâu! Hóa ra là lần nầy hình như mẹ anh đã quên bẵng cậu con. Anh đã được dạy là không được xin gì ở bàn ăn! Câu chuyện khôn khéo của cậu đã được ghi vào nhật ký gia đình và được nhắc đến nhiều lần vào lúc mà khách khứa vơi câu chuyện hàn huyên thì có tiếng nhỏ nhẹ nhắc khéo:
“Mẹ ơi—có phải bánh táo rất bổ cho các bé trai không?”
Cũng nơi chiếc bàn ấy mà mỗi ngày cậu phải học những bài cha cậu đã giao. Đến mười một tuổi thì cậu vào trường học. Mặc dù cậu thích được cha dạy hơn là học ơ trường tuy nhiên cậu đã trở thành một học trò xuất sắc nơi nhà trường. Cha cậu có một vẻ gì cương nghị và trí thức, ông mang những ý nghĩ bất di dịch về cái sai, cái đúng và kỷ luật sắt thép của ông. Hudson đã tập phải đúng giờ từ lâu trước khi đời anh bị chi phối bởi tiếng chuông của nhà trường! Thật khổ cho những cậu nào không quen ngồi ở bàn mà buộc phải rửa tay trước, tóc phải chải tươm tất trước khi ăn!
Cha cậu thường nghiêm nghị dặn bảo, “Nếu có năm người mà mỗi người bắt kẻ khác chờ một phút thôi là mất đi năm phút rồi. Đó là những phút đi mất không bao giờ lấy lại được!” Thật quả là lời dạy nghiêm khắc!
Một định luật khác của ông là, “Phải tập mặc áo quần cho nhanh. Vì suốt đời con, con phải làm chuyện ấy mỗi ngày một lần.” Vì thế mà con phải tập cho quen đi. Ông có lý do chính đáng để nêu ra luật ấy. Nếu Hudson nhớ lại các kỷ niệm đó và cười một mình đang khi ngồi trong căn nhà ấm cúng là vì cậu thích nhớ lại những chuyện ngộ nghĩnh về tính ngông của các bậc cha mẹ. Anh thích thú nhớ lại rằng lần đầu tiên anh nghe nói đến Trung Hoa là qua cha anh. Lúc ấy anh mới năm tuổi, anh còn nhớ nghe ông dõng dạc thốt lên:
“Sao chúng ta không gởi giáo sĩ qua đó! Đó là một xứ mà mình phải hướng đến. Một xứ đông dân…khoẻ mạnh, thông minh và học thức!”
Bây giờ, sau mười lăm năm, chính Hudson là người chuẩn bị sang đó! Trong khi anh nghỉ ngơi nhiều tuần ở nhà, có nhiều thì giờ suy nghĩ, anh lấy làm ngạc nhiên về phần số đã chứng tỏ cho anh thấy. Rõ ràng đây là phần số của anh, phần việc anh đã được giao cho để thực hiện. “Hãy đi sang Trung Hoa cho Ta.” Anh không quên được cái đêm mà anh nhận sứ mạng thiêng liêng ấy. Chắc chỉ có một kinh nghiệm khác hiện rõ hơn trong trí anh mà thôi. Trung Hoa lúc đó chưa nghe nói tới. Số là một buổi chiều trong một nhà kho cũ khi cái nhìn của anh về cuộc đời hoàn toàn thay đổi, nhưng nếu kinh nghiệm đó không xảy ra thì bây giờ chắc chắn anh cũng chẳng có ý định đi sang Trung Hoa nữa. Nhiều lần Hudson đã sống qua buổi chiều khó quên ấy. Nó xảy ra cách đây ba năm nhưng vẫn còn hiện rõ trong trí anh như thể mới xảy ra hôm qua thôi…
Lúc ấy anh mới mười sáu tuổi mà đã cảm thấy chán đời! Sống ở nhà, giúp cha anh trong cửa hàng, đời thật chán phèo! Không phải là anh không thương cha mẹ, anh rất thương cha mẹ anh nhưng anh thấy nếp sống của họ khó chịu làm sao ấy. Họ không thích khiêu vũ hay đi săn. Họ chỉ thích hát thánh ca trong ngôi nhà thờ nhỏ ở cuối đường, Hudson ngoan ngoãn phải đi theo cha mẹ đến đó nhưng anh cảm thấy chán ngán. Anh cố gắng tìm niềm vui như họ nhưng không được. Ao ước riêng tư của anh là được ở trong một ngôi nhà thật rộng có nhiều đầy tớ để anh được phóng khoáng, được ăn mặc áo khoác đỏ để đi săn. Anh ao uớc được cỡi trên một cái gì đó để chạy hết tốc độ—như cỡi ngựa chẳng hạn vì lúc đó người ta chưa phát minh ra xe mô tô! Lẽ dĩ nhiên các ước vọng đó rất có thể không thực hiện được, cho nên vì đầu óc chán nản mà một buổi chiều tháng sáu, anh lang thang vào trong phòng tìm cái gì để làm.
(More)

GS PHAM QUANG TAM

Mọi bài vở cộng tác và góp ý xin gửi về [email protected]

www.nguonhyvong.com