Lời Nói Đầu
Duncan Campell (1898-1972) được sinh ra tại vùng Cao Nguyên của xứ Tô Cách Lan. Ông đã đến với Chúa và tin nhận Chúa khi còn là một thiếu niên, phục vụ tại nhà thờ “Độc Lập Thống Nhất” (United Free Church) thuộc giáo hội Trưởng Lảo, và là một nhà truyền giáo lưu động. Ngoài sự liên quan của ông trong Cuộc Bừng Dậy Thuộc Linh Lewis (Lewis Awakening), ông còn được mời giảng dạy tại khắp lục địa Anh Quốc.
Tất cả các câu Kinh Thánh trong bài này dựa theo King James: Bài này được soạn thảo theo một bài giảng của ông Duncan cách nay khoảng ba mươi năm cho các sinh viên của trường Kinh Thánh Faith Mission ở Edinburgh, xứ Tô Cách Lan.
Bài này ghi lại một số kinh nghiệm của ông Duncan và những nhận định liên quan đến cuộc phục hưng từ năm 1949-1953 trên các hòn đảo Herbrides về phía tây Bắc chạy ven theo bờ biển của xứ Tô Cách Lan.
“Ôi! ước gì Ngài xé rách các từng trời, Ngài ngự xuống và làm rúng động các núi trước mặt Ngài, như lửa đốt củi khô, như lửa làm sôi nước, hầu cho kẻ thù nghịch biết danh Ngài, các dân tộc run rẩy trước mặt Ngài. Khi Ngài đã làm những sự đáng sợ mà chúng tôi không trông mong, thì Ngài ngự xuống, và các núi đều rúng động trước mặt Ngài.” Êsai 64:1-3
Tôi chưa bao giờ đọc câu thứ ba của Êsai 64 mà tâm trí tôi không bị tâm tưởng đến những việc đã xẩy ra tại vùng xứ đạo ở Barvas trên hòn đảo Lewis, vào khoảng 760 dặm về phía Bắc của Luân Đôn . Thành thật mà nói, cho tôi nói rõ vấn đề, tôi không có đem sự phục hưng đến Herbrides Tôi chỉ được hân hạnh có mặt tại đó, và chỉ đóng góp một phần nhỏ vào cuộc Phục Hưng ở đó trong vòng ba năm, nhưng chính Chúa đã cảm động xứ đạo Barvas ngay trước khi tôi đặt chân đến đó. Phục Hưng vẫn còn là một dấu hiệu bị nói sai trật., và bạn không thể tin mọi chuyện bạn nghe về cuộc bừng dậy thuộc linh ở quần đảo Lewis. Trải qua nhiều năm, nhiều điều được nói ra không có một chút căn nguyên hay nền tảng gì hết, tuy nhiên, sự thật rõ ràng là điều hào hứng nhất.
Định Nghĩa Phục Hưng
Trước hết cho tôi nói với bạn cái mà tôi muốn nói là sự phục hưng. Một chiến dịch truyền giáo hay một cuộc hội họp đặc biệt không phải là sự phục hưng. Trong một chiến dịch truyền giảng hay truyền giáo thành công, có thể có hàng trăm hay có khi hàng ngàn người tin Chúa Jesus Christ, nhưng tại địa phương đó hầu như không có gì thay đổi hay không có bị đụng chạm gì hết, và các nhà thờ tiếp tục sinh hoạt thường lệ như lúc trước khi truyền giảng. Trong cuộc Phục Hưng, Đức Chúa Trời chuyển động cả một địa phuơng, khắp phố phương ai ai cũng quan tâm về Chúa hay vấn đề thuộc linh.
Thánh Linh của Chúa thu hút cả nam lẫn nữ đến nỗi họ bỏ cả công việc làm ăn thường ngày để dành hết thời giờ tìm kiếm Chúa. Giữa cơn bừng dậy thuộc linh tại Lewis (Lewis Awakening), một mục sư tại Barvas viết, “Thánh Linh của Chúa ngự trị một cách kỳ diệu trên các quận huyện khác nhau của cả vùng. Ngài cũng hiện diện trong những gia đình của dân chúng, trên bãi cỏ, những vùng đất hoang, và ngay cả trên những đường xá công cộng.
Sự hiện diện của Chúa là đặc điểm tối thượng của một cơn phục hưng mà Chúa đem đến. Trong số hàng trăm người tìm gặp Đấng Christ trong thời gian này, bảy mươi lăm phần trăm đã được cứu trước khi họ dến tham dự buổi nhóm hay nghe một sứ điệp do tôi hay một mục sư nào khác truyền giảng tại vùng này. Quyền năng của Chúa, Thánh Linh của Chúa, vận hành trong cơn phục hưng, và sự run sợ Chúa chiếm lấy tấm lòng mọi người – đây là cơn phục hưng do Chúa đem đến khác với những nỗ lực đặc biệt trong lãnh vực truyền giảng.
Nền Tảng Của Việc Cầu Thay và Khải Tượng
Biến động từ ái này bắt đầu như thế nào? Năm 1949, một nhà thờ đia phương loan ra một tuyên cáo để đọc vào một ngày Chúa Nhật trong khắp các nhà thờ Độc Lập trên hòn đảo Lewis. Tuyên cáo này kêu gọi người dân cứu xét trạng thái quá yếu đuối về tôn giáo hầu như sống còn trong cuộc sống…xẩy ra ở khắp nơi…và sự ban phát hiện tại về sự không đẹp lòng của Thiên Thượng….do sự gia tăng về thờ ơ trong sự thờ phượng chung…cùng ảnh hưởng của sự gia tăng tính hưởng thụ đang xẩy ra giữa vòng thế hệ trẻ. Họ kêu gọi các hội thánh phải xem việc này rất nghiêm trọng, và khẩn thiết nài xin để sự việc này kết thúc nếu không có sự ăn năn.
Chúng tôi kêu gọi mỗi một người, nam cũng như nữ, trước mặt Chúa, cứu xét đời sống của mình theo trách nhiệm mà chính mỗi cá nhân phải chịu về hành động của mình, và mong rằng qua lòng đại từ của Chúa, chúng tôi có thể được Chúa thăm viếng với tinh thần hối cải và quay trở về cùng Chúa, Đấng mà chúng tôi làm buồn rầu. Tôi chưa có nói rằng việc đọc bản tuyên cáo này có ảnh hưởng gì đến các vị mục sư hay hội chúng.trên hòn đào nói chung, nhưng tôi biết chắc rằng một số nam nữ của địa phận Barvas rất quan tâm đến vấn đề này, nhất là hai phụ nữ lớn tuổi. Tôi hơi thẹn mà nghĩ rằng – hai người chị em này, một người tám mươi hai tuổi tên là Christine bị chứng bệnh phong thấp, và người kia tám mươi bốn tên là Peggy, còn bị mù. Họ quan tâm tới tình trạng thuộc linh của hải đảo này để Chúa làm điều gì đó, và họ dâng hết tâm lòng nài xin Chúa làm công việc của Ngài trong mái nhà tranh của họ.
Một đêm Chúa cho một trong hai phụ nữ đó một khải tượng. Chúng ta phải hiểu rằng trong cơn phục hưng những điều kỳ lạ xẩy ra. Đây là điều siêu nhiên, bạn không thể xét đoán theo nhản quan của con người, bạn đang cảm nhận trong những chỗ thiên thượng. Trong khải tượng, bà Christine thấy các nhà thờ đều đầy nghẹt những người trẻ và bà ta nói với chị mình rằng, “Em tin rằng cơn phục hưng đang đến vùng đất của mình.” Vào khoảng thời gian đó, không có đến một thanh niên nào tham dự buổi thờ phượng chung, một điều mà không thể chối cải được. Khi gặp được mục sư James Murray MacKay, bà này kể cho ông nghe những gì bà đã thấy trong khải tượng, và vị mục sư nhớ trong lòng câu chuyên của bà như là tiếng phán của Chúa.
Quay về phía bà ta ông hỏi, “Theo bà, chúng ta phải làm gì? phải làm như thế nào?” Bà ta trả lời, “Phải siêng năng cầu nguyện, phải sốt sắng tìm kiếm Chúa. Phải tụ họp các trưởng lảo và các chấp sự lại với nhau và dành ít nhất hai đêm mỗi tuần để tìm kiếm Chúa qua sự cầu nguyện. Nếu mục sư làm như vậy trong khu vực của mục sư, hai chị em chúng tôi sẽ cũng làm như vậy trong khu vực của chúng tôi từ mười giờ tối tới hai hay ba giờ sáng.”
Vì thế, vị mục sư kêu gọi tụ họp các vị lảnh đạo trong hội thánh, và trong suốt vài tháng họ tìm kiếm ý chỉ của Chúa trong một kho thóc giữa những bụi rơm. Trong suốt thời gian đó, họ nài xin dư theo lời hứa của Chúa trong Êsai 44:4, “vì ta sẽ rót nước trên kẻ khát, cho suối chảy nơi đất khô. Ta sẽ đổ Thần ta trên dòng dõi ngươi, và phước lành ta trên những kẻ ra từ ngươi.” Việc này liên tục xảy ra trong ít nhất ba tháng, nhưng không có điều gì xảy ra.
Nhưng có một đêm, một người chấp sự trẻ tuổi đứng lên đọc trong Thi Thiên 24:3-5, “Ai sẽ được lên núi Ðức Giê-hô-va? Ai sẽ được đứng nổi trong nơi thánh của Ngài? Ấy là người có tay trong sạch và lòng thanh khiết, Chẳng hướng linh hồn mình về sự hư không, Cũng chẳng thề nguyện giả dối. Người ấy sẽ được phước từ nơi Ðức Giê-hô-va, Và sự công bình từ nơi Ðức Chúa Trời về sự cứu rỗi người.”
Đóng cuốn kinh thánh lại, anh ta bày tỏ với vị mục sư và các vị lảnh đạo trong hội thánh bằng những lời nói như có vẻ cọc lóc trong Anh ngữ, nhưng không có cọc lốc trong ngôn ngữ Gaelic chút nào (tiếng địa phương ở quần đảo Lewis), “Theo tôi dường như có quá nhiều sự phỉnh lừa. Để tìm kiếm Chúa như chúng ta đang tìm kiếm Chúa, cầu nguyện Chúa như chúng ta đang cầu nguyện, khi chính chúng ta không liên hệ đúng đắn với Chúa.” Rồi, anh ta dơ tay lên trời và cầu nguyện, “Lại Chúa, bàn tay con có sạch không:? tấm lòng con có trong trắng không?” Rồi, anh ta ngả xuống trên hai đầu gối và lăn vào tình trạng hôn mê.
Xin đừng hỏi tôi giải thích biểu thị vật lý của biến đông này vì tôi không giải thích được, nhưng tôi biết chắc có điều gì xẩy ra trong dưa thóc vào khoảng khắc đó cho người chấp sự trẻ tuổi này. Có một quyền lực được tung ra làm rung chuyển cả thiên đàng, và một ý thức về Chúa đã kết chặt những người đang tụ họp với nhau.
Biến Cố Ở Barvas
Lúc đó, tôi chưa đến hải đảo. Tôi đang ở một đia điểm khác thì có lời mời tôi đến Lewis trong mười ngày. Tôi lại có một cuộc hội họp khác nên tôi viết thư trả lời tôi sẽ để Barvas trong lịch trình của tôi cho năm tới. Tuy nhiên, sau đó có một sự thay đổi, cuộc hội họp đáng lẽ phải xẩy ra bị huỷ bỏ, cho nên tôi có thể đến hải đảo theo lời thỉnh cầu.
Khi tôi đến bằng xuồng, tôi được vị mục sư sở tại cùng một chấp sự đón tiếp. Vừa đặt chân lên bờ, người chấp sự tiến đến hỏi tôi liền, “Cho tôi hỏi mục sư một câu hỏi được không? Ông có đi theo đường lối Chúa không? Tôi đã sung sướng trả lời rằng, “Tôi có thể nói rằng dầu bất cứ điều gì, tôi kính sợ Chúa.”
Theo như chương trình đã được sắp đặt sẵn, tôi sẽ nói chuyện trong buổi họp ngắn vào lúc chín giờ đêm đó. Buổi nhóm họp đêm đó thật đáng ghi nhớ. Chúa hành động trong buỗi nhóm và có sự quan tâm về Chúa thật kỳ diệu.
Buổi nhóm kéo dài đến bốn giờ sang, và trải qua nhiều năm trong chức vụ, tôi chưa bao giờ chứng kiến như tôi đã chứng kiến những gì xẩy ra đêm đó. Vào khoảng giữa đêm, một nhóm thanh niên rời bỏ vũ trường và tụ họp chật nít nhà thờ. Có nhiều người không thể ngủ được vì họ bị thôi thúc từ Chúa.
Mặc dầu có sự quan tâm đến Chúa và sự cáo trách tội lỗi trong buổi nhóm đầu tiên, biến chuyển thật sự xẩy ra vài ngày sau vào đêm Chúa Nhật tại nhà thờ. Nhà thờ thật đông người và Thánh Linh của Chúa hành động trong vòng hội chúng đến nỗi tôi không thể giảng được. Tôi chỉ đứng yên lặng và ngắm xem những việc kỳ diệu Chúa đang làm. Đàn ông cũng như đàn bà đang kêu gào cho sự thương xót của Chúa ở khắp nơi trong nhà thờ. Không có sự kêu gọi gì hết.
Sau buổi nhóm trên ba tiếng đồng hồ, tôi lên tiếng chúc phước và kêu gọi mọi người di chuyển ra ngoài, nhưng cũng nhắc nhở rằng ai muốn tiếp tục tham dự buổi nhóm có thể trở lại. Một vị chấp sự trẻ tiến đến tôi và nói, “Ông Campell, Chúa đang vận hành qua chúng ta.” Vào ngay lúc đó, người thư ký của buổi nhóm mời tôi đi ra cửa sau.
Có một đám đông vào khoảng 600 người đang tụ họp bên ngoài sân nhà thờ. Ai đó đưa cho Thi Thiên 102 và đám đông đổ dồn lại nhà thờ, nơi đó không còn chỗ chứa cho đám đông nữa. Một giáo viên đến trước nhà thò khóc thét lên, “Chúa ôi, không còn lại điều gì cho tôi sau?” Ngày hôm nay, cô ta là một giáo sĩ ở Nigeria. Có một xe buýt chở người ta đến tham dự buổi nhóm từ xa đến 60 dặm.
Quyền năng của Chúa hành động trong chuyến xe buýt làm cho một số người không thể vào nhà thờ khi xe buýt đến. Người ta bị bất tỉnh khắp nơi chung quanh nhà thờ, và tôi nhớ có một người nào được Chúa cảm động mà không có được sự tái sanh cách vinh hiển. Khi tôi ra khỏi nhà thờ vào lúc bốn giờ sáng có đám đông đang cầu nguyện dọc theo đường đi. Cùng với cố giáo dạy học, có vài người khác được tái sanh đêm đó bây giờ là giáo sĩ tại những cánh đồng truyền giáo hải ngoại ngày hôm nay.
Trong Nhà Thờ, Bãi cỏ, và Đất lầy
Từ Barvas, sự làm việc của Chúa lan tràn sang những địa phận lân cận. Tôi nhận được tin rằng một nhà thờ gần đó đang nhóm đông đủ lúc một giờ sáng và họ mời tôi đến. Khi tôi đến, nhà thờ đã chật cứng và có một nhóm người ở bên ngoài.
Khi tôi ra khỏi nhà thờ hai giờ sau đó, tôi thấy có một nhóm đông khoảng 300 người không thể vào nhà thờ được, đang cầu nguyện tại một cánh đồng trống. Một bà già lên tiếng cào nhầu vì tiếng ồn ào làm bà không ngủ được. Một chấp sự ôm lấy bà và lác lác bà lên và nói, “Bà ơi, bà ngủ khá dài rồi!” Có một vùng trền hòn đảo muốn tôi đến đó, nhưng tôi không cảm thấy được sự dẫn dắt để nhận lời mời. Người chị bị mù khuyến khích tôi đi và nói với tôi, “Nếu ông sống gần gũi với Chúa như ông mong muốn, Ngài sẽ bày tỏ những điều kín dấu cho ông.” Tôi bằng lòng dành thời giờ buổi sáng để cầu nguyện trong căn chồi của bà. Khi chúng tôi cầu nguyện, người chị trong Chúa này nói, “Chúa ơi, xin Ngài nhớ lại Ngài đã bầy tỏ cho con biết Ngài sẽ cứu bảy người trong nhà thờ này. Con mới vừa chuyển ý định của Ngài cho ông Campell, xin Ngài ban cho ông sự khôn ngoan vì ông rất cần điều đó.” Bà nói với tôi nếu tôi chịu đi đến làng đó, Chúa sẽ họp một hội thánh lại. Tôi bằng lòng đi, và khi tôi đến nơi lúc bảy giờ, có khoảng 400 người tại nhà thờ. Ai ai cũng nói không biết có gì đã thúc đẩy họ đến dự nhóm; Thánh Linh của Chúa đã hướng dẫn họ. Tôi giảng vài phút trong Sứ Đồ 17:30 “Vậy thì, Ðức Chúa Trời đã bỏ qua các đời ngu muội đó, mà nay biểu hết thảy các người trong mọi nơi đều phải ăn năn” Một trong những vị mục sư làm tôi dừng lại và nói, “Mục sư Campell, hãy đến xem việc này.” Tại một góc của nhà thờ, các nhân vật có tiếng tăm trong cộng đồng đang khóc lóc với Chúa. Trong một chuyến đi đến một hòn đảo lân cận tôi thấy thiên hạ có vẻ lạnh lùng và cứng lòng. Tôi kêu gọi một số người đến để cầu nguyện, tôi đặc biệt yêu cầu một thanh niên tên là Donald, đi theo chúng tôi. Donald vào khoảng mười bảy tuổi, Donald mới vừa được cứu cách đây không lâu và mới vừa được báp têm bằng Đức Thánh Linh sau đó hai tuần trên một ngọn đồi.
Sau khi chúng tôi cùng nhau cầu nguyện, chúng tôi đi đến nhà thờ thì thấy nhà thờ đã chật ních người, nhưng ít khi tôi cảm thấy tinh thần bị ái ngái, và cảm thấy không muốn giảng, đến độ đang giữa bài giảng, tôi ngừng lại. Mắt tôi bắt gặp Donald nước mắt đang dầm dìa, và dường như được Chúa đụng đến mà tôi không có. Vì vậy tôi ngừng giảng và nhờ Donald cầu nguyện. Donald đứng lên và cầu nguyện rằng, “Tôi dường như ngó châm châm vào một cửa đang mở và đang thấy Chiên Con ngự giữa ngai với chìa khóa của sự chết và âm phủ cột ở nịt lưng.” Rồi Donald ngừng lại và khóc nức nở. Khi Donald lấy lại bình tỉnh, Donald mở mắt ngó lên trời, dang tay mình lên, và nói, “Chúa ôi, quyền năng của Ngài ở đó, xin hãy mở nó ra.” Và ngay lúc ấy, quyền năng của Chúa đỗ xuống trên hội chúng. Ở một bên phòng, người ta dâng tay lên cao, đầu họ bật ra đằng sau và giữ trong vị thế đó suốt hai tiếng đồng hồ. Thật là khó khăn để làm như vậy khoảng mười phút chứa đừng nói đến hai tiếng đồng hổ. Ở phía bên kia của phòng, người ta thụp người xuống khóc lóc thảm thiết. Trong một làng khoảng năm dặm gần đó, quyền năng của Chúa lướt qua khu phố và không có nhà nào không có người được cứu đêm đó. Trong một khu vực của địa phương có một sự chống đối dữ dội vì tôi giảng về báp têm bằng Đức Thánh Linh là một sự việc riêng biệt và xẩy ra rõ ráng sau khi được cứu. Những người chống lại tôi đã thành công trong việc chống đối của họ vì có ít người đến dự nhóm. Một đêm, người thư ký của buổi nhóm đến với tôi và nói, “Chỉ có một điều chúng ta có thể làm để sửa sai tình trạng này hầu phản ứng lại. Chúng ta phải đầu phục chờ ý Chúa trong sự cầu nguyện. Tôi được cho biết có một nông chủ nói chúng tôi có thể nhóm ở nhà ông ấy. Ông ta không phải là Cơ Đốc nhân và bà vợ chưa được cứu, nhưng họ là người kính sợ Chúa.” Có vào khoảng ba người chúng tôi, gồm các mục sư và trưởng lão trong địa phận, gặp nhau ở nhà người nông chủ này. Tôi cảm thấy sự việc tiến hành rất khó khăn. Tôi cầu nguyện. Tất cả các mục sư đều cầu nguyện. Một người cảm thấy quyền lực của âm phủ đang bị thả lỏng. Vào khoảng giữa đêm, tôi quay sang một vị trưởng lão làm nghề sửa giầy, nẩy giờ đang im lặng và nói với ông ta rằng đã đến lúc ông ta cần kêu nài Chúa. Người này đứng dậy và cầu nguyện trong nửa tiếng đồng hồ. (Dĩ nhiên, quý vị phải nhớ chúng tôi đang ở trong sự phục hưng, và trong sự phục hưng thời gian không hiện hữu. Không có ai nhìn đồng hồ cả.) Người trưởng lão dừng lại, dơ tay lên trời và nói, “Chúa ôi, Ngài có biết danh dự của Ngài đang bị thử thách không? Ngài hứa rằng Ngài sẽ rót nước trên kẻ khát, cho suối chảy nơi đất khô, nhưng Ngài không làm điều đó.” Tôi thắc mắc bao nhiêu người trong chúng ta có thể thốt lên những lời như vậy với Chúa? Rồi ông ta nói tiếp, “Có năm vị mục sư kể cả ông Campell hiện diện ở đây, và tôi không biết họ đang ở đâu trong sự hiện diện với Ngài. Nhưng nếu tôi biết được lòng tôi, tôi có thể nói rằng tôi khao khát sự bầy tỏ quyền năng của Ngài.” Ông ta ngừng lại và rồi kêu to lên, “Chúa ôi, danh dự của Ngài đang bị thử thách và tôi thử thách Ngài đổ nước trên cơn khát và làm lục lội chỗ đất khô hạn.” Và ngay lúc đó căn nhà xây bằng gạch bị lây chuyển như chiếc lá. Tức thì tôi nhớ lại trong sách Công Vụ (4:31)có chép các sứ đồ đang cầu nguyện và chỗ họ đang nhóm họp bị rúng động. Vừa khi người trưởng lão thân yêu này ngưng cầu nguyện, tôi tuyên bố cầu nguyện chúc phước lúc đó hơn hai giờ sang và đi ra ngoài thì nhận thấy cả làng đang bốc cháy với Chúa. Tôi đi vào trong nhà thì thấy chin người đàn bà đang quỳ gối ở nhà bếp khóc lóc với Chúa. Một bà được cứu đêm đó đã viết lên những bản thánh ca tuyệt diệu trong cuốn Thánh Ca bằng tiếng Gaelic. Vào Chúa Nhật sau đó, con đường mòn dẫn đến nhà thờ trở nên mòn hơn vì những dấu chân của người ta đi bộ hàng dặm đến nhà thờ. Tiêm bán ruợu của làng đó đóng cửa đêm đó và không còn mở cửa nữa. Chúa đang làm việc. Ngài đem sự phục hưng đến để phục hưng về sự nên thánh. Nhưng điều đáng nhất trong việc thăm viếng của Chúa không phải diễn ra trong nhà thờ, nhưng là ảnh hưởng thuộc linh trên hòn đảo này: nhiều người trước đây không có mải mai nào tìm kiếm Chúa, thình lình bị bắt quy phục và trở nên rất quan tâm đến sự cứu rỗi của linh hồn họ. Một trưởng lão trong nhà thờ Độc Lập mà gia đình được cứu, nói về ngôi làng của ông rằng:” Đây là công việc của Chúa làm, Danh Ngài được tôn vinh.” Một người viết một bài báo đăng trên tờ báo địa phương nói về cuộc phục hưng, “Có nhiều người nhóm họp hơn trong những buổi cầu nguyện hàng tuần, nhiều hơn số người dự nhóm trong các buổi lễ thờ phượng sáng Chúa Nhật trước khi cơn phục hưng đến.” Tôi được cơ hội trở lại thăm viếng hòn đảo, thật là niềm phước hạnh khi thấy những người mới tin Chúa lớn lên trong ân điển, và bày tỏ niêm tin trong nhà thờ và trong cộng đồng bằng chứng tốt: nghe họ thuật lại lời chứng hay nghe họ cầu nguyện như “nước tươi mát đỗ vào một tâm hồn đang khao khát” Kết Luận Phải có điều siêu nhiên để đánh đỗ những gông cùm của điều tự nhiên. Bạn có thể làm cho một cộng đồng quan tâm đến sứ mạng truyền bá Tin Lành. Bạn có thể làm cho một cộng đồng quan tâm đến truyền giảng. Nhưng chỉ có Chúa mới làm cho cộng đồng quan tâm đến Chúa. Hãy thử nghĩ xem điều gì sẽ xẩy ra nếu Chúa đến với bất cứ cộng đồng nào trong quyền năng của Ngài. Tôi tin là ngày đó đã gần rồi. Cầu mong Chúa chuẩn bị tất cả chúng ta cho điều sẽ xẩy ra. Amen.
Mọi bài vở cộng tác và góp ý xin gửi về info@nguonhyvong.com
www.nguonhyvong.com