Tôi là một tín đồ Phật giáo và được sinh trưởng trong một gia đình trung thành với Phật giáo. Tôi cũng cầu xin với nhiều vị thần, hy vọng nhận được sự bảo vệ và phước hạnh cho gia đình mình. Nhưng những lời cầu xin đó không cất khỏi nỗi sợ hãi trong tôi mà chỉ làm tăng thêm sự mê tín.
Ngày tháng trôi đi, đến một ngày nào đó tôi đã phải rời xa gia đình đi làm ăn xa tại đất Mã Lai. Tưởng chừng nơi đất nước xa lạ này chỉ toàn là người đạo Hồi, nhưng cũng rất nhiều người Trung Quốc và Ấn độ, tôi thơ thẩn trong một môi trường xa lạ, nỗi buồn cứ đến với tôi trong những ngày xa nhà giống như những đám mây đen cứ kéo về bao trùm tôi. Tình cờ tôi cùng một người bạn đi dạo phố thì gặp được 2 ngưòi con gái. Họ là những Cơ Đốc Nhân tận hiến và có tấm lòng quan tâm. Hai chị đó đã nâng đỡ, yêu thương, khích lệ chúng tôi. Món quà đặc biệt và luôn thiết thực của 2 chị cho người khác là chia sẻ về Chúa Giê-Su. Hai chị đã chứng kiến và nhận thấy cho riêng mình ơn cứu rỗi của Ngài. Rồi tôi được 2 chị đưa đến nhà thờ và ra mắt Mục sư. Trong những ngày tôi đến nhà thờ đều được Mục sư đến thăm và cầu nguyện, giảng lời Chúa cho chúng tôi. Mỗi lần ông cầu nguyện, tôi lại có cảm giác bình an. Ông nói với chúng tôi về Chúa Giê-Su và sự sống đời đời. Bắt đầu từ đó tôi đã tin nhận Chúa và nhận phép báp-tem. Tôi đã gặp được Chúa chính lúc tôi cần. Tôi đã trải qua nhiều tháng năm bão tố, vùi dập hết từ con song này đến con sóng khác. Trước khi có thể đứng vững được trên dòng nước phẳng lặng thì một con sóng triều khác dường như muốn cuốn tôi lên rồi ném tôi sang một ngọn sông khác, cho đến khi tôi nghĩ đã bị Cứu Chúa bỏ rơi. Thế nhưng qua tất cả mọi sự Ngài vẫn có ở đó, vô hình, mơ hồ, nhưng bất khuất. Tôi có cảm nhận sự hiện diện của Ngài ở trên, ở dưới và xung quanh tôi. Dường như đang chết đuối, tôi neo chặt vào Ngài bằng một sợi dây an toàn như những tơ nhện bằng lụa bao phủ quanh tôi như vừa đủ để tôi có thể thở, vận động và làm việc. Những nan đề đó đã nhấn chìm tôi vào sự khước từ, theo đó là sự cô lập với bạn bè.
Tôi đã xuống đến tận cùng đáy nhưng cũng từ từ nổi lên và chỉ có ai gặp hoàn cảnh tương tự mới có thể hiểu được. Điều gì sánh với sự đau khổ Chúa Giê-Su đã chịu vì tôi. Tôi nghĩ đó là nỗi khổ của tôi. Tôi học được nhiều sự cứu rỗi của Ngài, hoàn toàn không phải chỉ về phần thuộc linh nhưng là cả con người chúng ta. Ngợi khen Chúa, Ngài đã chuẩn bị sự tiếp trợ khác để cứu tôi. Vì Ngài từ ban đầu đã biết được kết cuộc nên Ngài đã theo tôi từ thuở ấu thơ mà tôi không biết. Ngài đã ban cho tôi tình yêu đối với âm nhạc. Ngài đã tưới lên những giai điệu xanh khi tôi còn đi học. Cho đến giờ này tôi đã biết về Chúa và đến với Hội Thánh, tôi đã tham gia vào ban hát … “Ôi tình yêu không thể cho tôi đi. Tâm linh của tôi an nghỉ trong Ngài …” Mỗi bài thánh ca, mỗi câu Kinh thánh đã được ban hát làm tăng thêm ý nghĩa. Tuy không có nhạc đệm nhưng tôi vẫn say sưa ca hát. Qua những năm tháng đó điệp khúc các bài hát đầy ngập tâm trí tôi và đem đến cho tôi sức mạnh để tiếp tục bước đi trên con đường theo Ngài. Một năng lực khác cho cuộc đời tôi là việc học lời Chúa. Lời Ngài trở nên sống động kkhi tôi biết nhận lấy những lời hứa của Ngài cho chính mình và người khác. Nhận thức về quyền năng của Chúa tăng lên trong tôi, qua nhóm nhỏ mà tôi gia nhập. Thật là phước hạnh khi tôi có thể cầu nguyện và có mối thông công với nhóm. Chúng tôi xuất thân từ những hoàn cảnh khác nhau nhưng kết chặt bằng sợi dây yêu thương bền vững. Những tổn thương vốn từng bị đè nén được giải thoát, sự bình an mà chỉ Chúa mới có thể ban cho, tràn đầy trong lòng chúng tôi. Việc chữa lành hoàn toàn sẽ đến theo thời gian, như những quả cân làm tan nát có thể được cất đi khi chúng ta cùng mang ách với Ngài. “Dù cho gió thổi dữ dội và bão tố tấn công Trái tim bị tổn thương của tôi vẫn hát Tôi biết những điều đó không phải để hãm hại tôi Vì Ngài cỡi trên cánh của chúng” Đó là những câu thơ trích trong bài thơ nổi tiếng “Những dòng suối trong sa mạc”.
Tôi đã biết và tin nhận Ngài. Tôi sẽ theo Ngài để thờ phượng Ngài vì Ngài là “đường đi, chân lý và sự sống”. Trong đoạn cuối của bài làm chứng này, tôi xin trích phần nhỏ trong Kinh Thánh Thánh Thi đoạn 23 như ông Đa vít đã từng nói: “Chúa là Đấng chăn giữ tôi Tôi sẽ không thiếu thốn gì Ngài giúp tôi an nghỉ nơi đồng cỏ xanh tươi Thật vậy, trọn đời tôi Phúc lành và tình yêu thương sẽ theo tôi Tôi sẽ ở trong nhà Chúa đến muôn đời”.
SUU TAM