Tôi chào đời vào một buổi mai cuối thu, tháng 09 năm 1939, tại phía Đông* thành phố Luân-đôn, nước Anh, ấy cũng là năm bắt đầu cuộc Đệ Nhị Thế Chiến*.
Gia đình tôi sống trong một căn nhà èo ọp.

Phòng ăn kê một cái bàn gỗ sơ sài với khăn trải bàn là những tờ báo cũ đầy tin tức chiến tranh. Thường ít khi chúng tôi được ăn trên bàn mà ngồi xếp bằng trên nền nhà. Mẹ tôi chia cho chị em chúng tôi những thức ăn đơn sơ mà bà kiếm được, hầu hết chỉ là bánh mì với mỡ nước. Tôi thắc mắc: “Tại sao chúng ta không có những thức ăn ngon, hở Mẹ?”. Mẹ bảo: “Mẹ cho gì ăn nấy, đừng phàn nàn chi cả”. Tôi thêm: “Mẹ ơi, Mẹ có cần tiền mua thức ăn không Mẹ, để Mẹ mua thịt, mua cá, mua bánh…” _ “Ừ, thì Mẹ cần, nhưng chúng ta không thể có được con à. Hãy bằng lòng với những gì con có đi, đừng đòi cái không có được”. Tôi không thể bằng lòng vì tôi đang thèm khát những thứ đó cơ mà. Sự ao ước trong tôi cứ tăng dần và một ngày nọ tôi quyết lòng tìm hiểu thêm.
Một buổi mai mùa xuân ấm áp, cây cối, hoa cỏ mơn mởn trông dễ thương, tôi quyết định trèo lên một nhánh cây cao. Bên kia bức tường là thế giới của những nhà giàu. Tôi, đứa con gái nhỏ bên này nhướng mắt lên, há hốc miệng, cố sức nhìn trộm vào nhà người khác qua ô cửa sổ trống. Ồ! Người ta đang sống trong một thế giới khác! Đồ đạc của họ bóng như gương. Tôi nghĩ: “Cuộc đời sẽ như thế nào nếu được sống trong một căn nhà như thế nhỉ?”. Tôi nhớ rõ nhỏ bạn của tôi, nhà ở một góc đường đằng kia, nó có riêng một cái giường trải “ra” trắng. Chẳng bì với cái giường của tôi, không phải là cái giường mà là một tấm bố nhớp nhúa trải trên nền nhà. Chỉ có một cái giường duy nhất dành cho Ba với Mẹ thôi.
Tôi là chị cả của bốn đứa em gái. Tôi phải trông nhà và giữ em trong những lúc Mẹ tôi đi vắng (dù tôi còn rất nhỏ dại). Ba tôi bị mất việc làm vì ông say sưa hoài, Mẹ tôi buồn rầu nên gầy đi. Bà thường ra đường tìm Ba tôi khi chiều tà. Mẹ tôi đổ lỗi cho chiến tranh nên Ba tôi sinh tật uống rượu. Với một cảm quan nhanh nhẹn và bén nhạy, tôi làm tròn nhiệm vụ của mình cách dễ dàng. Các em tôi yêu mến tôi, không cần ai nhắc nhở hết, tôi tự trông nom chúng. Các bà hàng xóm cũng thường nhờ tôi trông hộ con của họ. Những đức nhỏ hơn tôi, chúng thường nhìn tôi cách mến phục. Ba tôi có mấy con gà, nhưng chẳng bao giờ chúng tôi được ăn lấy một cái trứng. Ông thường đem bán để uống bia. Tôi thường nghĩ “Chỉ có Ba với bia của Ba thôi!”.
Tôi thường dẫn lũ trẻ trong xóm đi chơi đây đó. Vì chúng, tôi thường dùng đủ mọi mưu kế để có kẹo cho chúng ăn, có đồ chơi cho chúng chơi. Bằng cách này hay cách khác, tôi tìm được vài chục bạc, thường là xin khách đi đường. Tôi dẫn lũ nhỏ vào tiệm bán kẹo. Trong lúc tôi lăng xăng mặc cả với chủ tiệm, thì đàng kia, lũ nhỏ tự do lấy những gì chúng thiếu. Chúng tôi rất lẹ làng và khôn khéo, cũng có lần chúng tôi suýt bị bắt. Khi biết được hành động của tôi, Mẹ tôi giận lắm, nhưng thật ra nỗi buồn của bà quá lớn, thì giờ đâu bà nghĩ đến chuyện dạy dỗ con! Ở đời có nhiều điều đáng lưu ý hơn là đạo đức và Thượng Đế _Thượng Đế, đó chỉ là một trong những lời nguyền rủa của tôi. Trong gia đình, Ba tôi mỗi ngày một tệ hơn. Ông thường nổi giận một cách đáng sợ. Tôi thường thấy những vết bầm, những vết dao cắt trên môi, trên má Mẹ tôi. Có lần tôi chạy ra ngoài vườn nức nở: “Ôi, lạy Chúa, lạy Chúa, xin đừng cho những điều này xảy ra trong gia đình con nữa!”. Rồi cái gì sẽ xảy ra nếu tình trạng cứ kéo dài mãi. Tôi thường cố xua đuổi những hình ảnh này đi. Có lẽ mọi sự rồi sẽ ổn, có lẽ nó sẽ thay đổi vào ngày mai!
Đi Câu Cá
Mặc dầu Ba tôi say sưa cả ngày, tôi vẫn yêu ông ta với tất cả tấm lòng. Tôi thường ước ao phải chi Ba tôi bớt nhậu nhẹt đi để Mẹ được vui hơn. Mỗi một đồng ông kiếm được đều để dành cho rượu. Ông bán cả chiếc áo để nhậu, tuy nhiên, cũng có những lúc ông không say, đó là những thì giờ vàng ngọc cho tôi.
Vào một buổi sáng thứ bảy mùa thu khi trường nghỉ dạy, tôi thấy Ba vui vẻ hơn mọi ngày. Thình lình ông gọi lớn:
_“Đo-rinh (Doreen), con dậy chưa”.
_Vâng, thưa ba, con dậy rồi.
_“Con muốn đi câu cá với Ba sáng nay không?”.
Ồ, tôi luýnh quýnh mặc quần áo. Tai tôi lùng bùng tưởng mình nghe nhầm, nhưng chẳng bao lâu hai cha con sung sướng cắp tay nhau ra sông. Ba thật là một tay bắt cá giỏi. Ba bắt đầu dạy tôi cách bắt cá thế nào, tôi lắng tai nghe mặc dầu không hiểu hết. Nhưng điều ấy đâu quan trọng gì, miễn là tôi được ở gần Ba, một mình với Ba, không có tụi nhỏ khuấy rối. Bầu trời buổi mai trong như không một gợn mây, những tia nắng ấm áp hơn mọi ngày, không khí thơm lành, gió hiu hiu như hôn vào hai má tôi, luồn vào từng kẽ tóc tôi, tôi thấy cuộc đời đáng sống hơn bao giờ hết…. Cây cối xanh đẹp lạ lùng, bờ sông êm ái, dòng nước chảy lờ đờ cách bình thản, tất cả những ưu phiền trong quá khứ như tan biến hết theo ánh nắng vàng dịu, ngoài trừ tiếng chim hót đâu đó. Không ai có thể tin rằng ấy thế mà chiến tranh đang tiếp diễn. Mọi vật rất bình lặng như chỉ có hai cha con chúng tôi trên thế gian này. “Có lẽ Ba không đi uống rượu nữa… có lẽ Ba sẽ dẫn mình đi câu cá như hôm nay thay vì ra ngồi quán rượu”. Những ý nghĩ này cứ đầy ắp trí non dại của tôi. _“Đã đến giờ về rồi đó con”, Ba nói. Thời gian đi thật là nhanh. Khi về đến nhà, Ba bỏ những con cá mới bắt vào lu trong buồng tắm, cái buồng tắm chẳng bao giờ được dùng đúng vào việc chính của nó. Có lần, Ba bắt được một mớ lươn, tôi và mấy đứa em nhìn chúng một cách kinh sợ. Tôi còn nhớ cả mấy chị em chúng tôi cùng đứng trên một cái thùng gỗ chọc phá những con lươn với cái cây sào dài qua cửa sổ, vì Ba luôn đóng cửa chính lại.
Có lúc tôi không còn thấy yêu Ba tôi nữa vì những nỗi nhọc nhằn mà ông đã gán trên đầu Mẹ con chúng tôi, nhưng cũng có lần tôi muốn làm một cái gì đó cho Ba tôi như đánh đôi giày cho ông, những mong lúc trở về ông sẽ đỡ tôi ngồi trên đùi ông và nói với tôi những lời âu yếm như “Ba rất thương con”. Nhưng tôi chẳng bao giờ được nghe những lời mà tôi ao ước được nghe như thế. Ước gì có một người nào đó thật sự thương yêu tôi. Cuộc sống cứ mỗi ngày một tệ hơn. Nhiều đêm tôi kinh hoàng ôm mấy đứa em khi tiếng đại bác trên đồi khạc đạn trong lúc Mẹ vẫn còn lang thang tìm Ba ngoài đường. Tôi bắt đầu suy nghĩ: “Mẹ mình nói đúng, tại chiến tranh nên Ba mình uống rượu như thế đó”. Mấy đứa em kinh khiếp khóc la, tôi cố gắng xoa dịu chúng: “Không sao đâu, đừng sợ, đã có chị lo cho”. Chẳng bao lâu chúng say sưa trong giấc ngủ. Những giọt nước mắt bắt đầu lăn trên má tôi. Tôi cảm thấy cô đơn, bơ vơ, lạc lõng khi nhìn ra bầu trời đen kịt, từ trong căn phòng trống hoang, tôi đứng dậy nhìn qua cửa sổ, nhìn xuống đường, hy vọng thấy Ba Mẹ trở về nhà. Đôi khi tôi đứng đó cả hằng giờ rồi cố gắng cầu nguyện: “Ôi, lạy Chúa, xin Chúa giúp con, giúp các em con, con biết rằng con đã làm nhiều điều sai, nhưng con sẽ cố gắng sửa lại. Ôi, lạy Chúa, xin giúp cho Mẹ, cho Ba và tất cả mọi người.”. Sau khi cầu nguyện, tôi chẳng thấy có gì tốt đẹp hơn, vì thế cuối cùng tôi quyết định rằng không có Thượng Đế và sẽ không bao giờ cầu nguyện nữa.
Năm chị em chúng tôi đi đến lớp Trường Chúa nhật mỗi tuần, nhưng chỉ là để tránh cái không khí ngột ngạt, khó thở ở trong gia đình. Mỗi chiều Chúa nhật, Ba tôi thường trở về nhà với những cơn giận dữ dọa nạt, vì thế chúng tôi rất vui khi được thoát khỏi tay ông. Nhiều lần tôi bị đuổi khỏi Trường Chúa nhật vì những chuyện nghịch ngợm của tôi. Tôi hát trại lời của Thánh ca đi, tôi thường cãi lộn, ném đá vào lớp học, đôi lúc có người rượt đuổi tôi, nhưng chẳng bao giờ họ bắt được tôi, vì tôi thật quá lẹ làng so với họ. Dầu vậy, cô giáo Trường Chúa nhật quá kiên nhẫn với tôi. Cô thường để ý đến tôi,. Đã bao nhiêu lần tôi thường nghịch ngợm phá phách, nhưng cửa Trường Chúa nhật vẫn mở rộng để tiếp đón tôi, có lẽ cô giáo lớp Trường Chúa nhật nghĩ rằng những lời cô ấy nói với tôi như nước đổ đầu vịt, nhưng thật ra thì không phải thế. Sau này tôi còn nhớ rất rõ những lời cô ấy nói, có những bản Thánh ca mà tôi không tài nào hát được như: “Có một Thành phố tuyệt đẹp, nhưng những kẻ nào có tội thì không được vào đó ”. Người có tội thì không được vào thiên đàng, tôi có tội vì tôi thường ăn cắp. Tôi dẹp những ý nghĩ về thiên đàng qua một bên, nhưng tôi vẫn thường đi Trường Chúa nhật để được uống nước chanh, ăn bánh và trái cây sau những lần nhóm Thờ phượng Chúa. Những buổi nhóm ngoài trời thì rất quan trọng cho chị em chúng tôi. Luôn luôn chị em chúng tôi đến sớm nhất, đôi khi đợi cả hằng giờ cửa mới bắt đầu mở.
Một ngày kia, cô giáo Trường Chúa nhật hỏi tôi có muốn đi cắm trại không? Muốn đi không à? Ồ! Tôi chẳng bao giờ được nghe nói như thế. Tôi chạy về nhà xin Mẹ. Mẹ bằng lòng. Tôi nóng lòng đợi đến ngày đi cắm trại. Trước ngày cắm trại một tuần, cô giáo gọi riêng tôi ra và cho tôi một số vật dụng cần thiết như: xà-phòng, khăn lông, lượt chảy đầu, kem, bàn chảy đánh răng, đôi vớ và một bộ áo ngủ. Tôi bàng hoàng xúc động nhìn những vật dụng này. Cô nói: “Đừng nói cho ai biết cô đã cho em những vật này nhé!”. Tôi cứ tưởng như mình nằm mơ.
Rồi ngày trọng đại cũng đến. Tôi thức dậy cùng lúc với con chim sơn ca. Hôm đó là thứ bảy nhưng dường như khác với những ngày thứ bảy trước đó. Tôi là trại viên đi sớm nhất, vì phải đợi một giờ sau xe mới đến. Chúng tôi bước lên một xe rất lớn. Tất cả đám con nít trong xóm, kể cả mấy đứa em tôi ra đứng vẫy tay tiễn tôi đi. Tôi lấy làm hãnh diện với chúng lắm. Địa điểm cắm trại dù không cách xa Ớt-xơ-bơ-rít (Uxbridge) là bao, nhưng đối với tôi là kẻ mới biết đi xe buýt lần đầu tiên thì kể như xa hàng vạn dặm. Tôi chẳng bao giờ quên được những ngày thần tiên nơi trại. Ban ngày chúng tôi được đi vô rừng leo trèo hái hoa. Buổi tối, chúng tôi ngồi quanh đống lửa trại, ca những điệp khúc…, kịch, trò chơi. Vâng, mọi sự đối với tôi đều tuyệt vời cả. Tim tôi luôn luôn rộn rã, những việc làm là những trò giải trí thích thú. Hơn nữa, được nằm ngủ trong bộ quần áo mới, dưới tấm lều sạch sẽ, cái mền thơm tho, tất cả đối với tôi quả thật tuyệt diệu. Những bữa ăn thì thật ngon và thật đầy đủ, lại còn biết đánh răng mỗi buổi, rửa tay với xà phòng thơm. Lau mặt bằng chiếc khăn mới. Chúng tôi được dẫn đi nhà thờ trong ngày Chúa nhật. Tôi còn nhớ hôm đó vị mục sư đã giảng về Chúa Giê-xu bị đóng đinh trên cây thập tự, rồi ông khóc. Điều này làm cho tôi cảm thấy mình tội lỗi, tôi hối hận về những lỗi lầm đã qua. Tôi chẳng muốn chấm dứt cuộc cắm trại tí nào, nhưng rồi bảy ngày cắm trại cũng chấm dứt. Tất cả trại sinh dọn dẹp đồ đạc lên xe trở về nhà. Tôi buồn lắm. Chẳng bao lâu chúng tôi về đến Ớt-xơ-bơ-rít (Uxbridge). Vừa thấy tụi nhỏ đứng đón bên dưới, tôi nhảy ra khỏi xe, chạy lại với chúng.
Mẹ tôi
Sau cuộc cắm trại đầy thú vị, tôi lại đương đầu với những chuỗi ngày đầy cay đắng như trước. Sự cãi vả, la lối trong gia đình đi đến mức không còn chịu đựng được nữa. Tôi tự hỏi bao giờ thì tình trạng này sẽ chấm dứt? Cái gì sẽ xảy ra cho Ba tôi, Mẹ tôi, tôi và các em tôi? Chính những ý nghĩ này đã làm cho tôi không thể làm một học sinh ngoan ở trường được. Cô giáo, người chẳng bao giờ hiểu được nan đề của tôi. Cô thường đuổi tôi ra khỏi lớp học. Trường học như là một cơn ác mộng cho tôi, tôi thường đi học trễ mặc dù hết sức cố gắng. Mọi sự thì thật dễ dàng cho họ, họ cứ ngồi đó rồi bảo mình ra về! Hay có lẽ tại áo quần của mình? Tôi bắt đầu hiểu được sự khác biệt của tôi đối với các đứa trẻ khác. Tóc tôi ít khi được chải. Có lần cô y tá ở trường đuổi tôi về vì đầu tôi đầy chí. Tôi ghét cô ấy lắm. “Không công bình tí nào cả, tại sao họ cứ dằn vặt mình và mấy đứa em mình? Tại sao cô giáo không binh vực mình?”. Tôi thường là đề tài cho tụi con trai, con gái trong trường chế giễu. Tôi vốn có tình cảm bén nhạy, vì vậy, những điều này làm cho tôi khó chịu vô cùng. “Đồ bọ nẹt, đồ răng vàng”, đó là biệt danh tụi nó dành cho tôi cứ theo đuổi tôi bất cứ nơi nào tôi đi, nơi nào chúng thấy. Còn cô giáo thì cứ đổ quạu mỗi lần thấy tôi đến. Vì thế tôi thường chạy rong chơi trên công viên thay vì đến trường. Tôi nằm dài trên cỏ hay leo lên cây cao với những mơ mộng về một nơi xa xôi nào đó như Phi Châu, Ấn Độ mà tôi được học trong bài địa lý ở trường. Tôi bỏ học cũng do nhiều nguyên nhân khác như Mẹ bảo ở nhà trông chừng em cho bà hoặc tôi không có dép để mang. Tuy nhiên, tôi cũng được lũ bạn khâm phục nhờ những môn thể thao như bơi lội chạy nhảy. Tôi có thể lội qua như một con cá, nhảy như một con ếch, chạy như một con hươu.
Một ngày kia, tôi đi chơi ở một bãi hoang, trong lúc lang thang, tôi gặp một cái mộ con nít mới chôn, trên bảng có đề là “Hạ tím ”. Tôi bắt đầu nói chuyện với đứa trẻ chết đó, lòng tin tưởng rằng cô bé sẽ nghe và hiểu tôi. Trong sự cô đơn, tôi xây nhiều tưởng tượng qua ngôi mộ này. Tôi có cảm tưởng Hạ tím là tiêu biểu cho một người cha hiền từ, một cô giáo tử tế mà tôi chưa hề gặp. Trên đường từ trường về nhà tôi thường quỳ xuống bên mộ đó, mang theo bó hoa dại hái ven đường, tôi chia xẻ với người bạn mới tất cả những nỗi buồn phiền, lo lắng. Không một ai biết được sự liên lạc này và đứa trẻ chết như chỉ là bạn thuộc riêng của tôi thôi. Những thì giờ còn lại tôi chạy lên đồi, bứt những bông hoa kèn, gặp những người lính Mỹ tôi xin kẹo, họ rất tử tế, thường cho tôi những viên kẹo cao su hoặc sô-cô-la. Tôi chạy nhanh về nhà chia những viên kẹo đó cho các em tôi. Tình yêu giữa Ba Mẹ tôi như không còn nữa. Đánh lộn, cãi vã xảy ra hằng ngày. Nhưng lý do bây giờ lại khác, không phải vì tiền, hay vì rượu chè mà là vì sự xuất hiện của một người đàn bà lạ mặt. Người đàn bà này là ai vậy? Tôi rất ngạc nhiên nhưng rồi cũng hiểu. Ba tôi yêu một người đàn bà đã chết chồng. Lòng Mẹ tôi tan vỡ, bà khóc suốt ngày. Còn tôi thì lo sợ bị bơ vơ, lạc lỏng. Tôi an ủi Mẹ tôi “Đừng khóc nữa Mẹ, mọi việc rồi nó cũng sẽ qua, con sẽ giết bà ta cho Mẹ”. Cuộc sống càng tệ hơn trước, giông tố bủa giăng chúng tôi từng phút giây. Con chó Bét-xi (Bessie) cảm thấy khó ở trong mình, cặp mắt nâu to của nó buồn vời vợi. “Em Bét-xi (Bessie) , em có hiểu không em?”, tôi vò đầu nó. Hôm đó, ngày định mệnh, tôi hăng hái từ trường trở về nhưng tôi chẳng thấy Mẹ đâu cả, ngọn đèn sắp tắt vì cạn dầu. Căn nhà trông tẻ lạnh quá, tôi bận rộn cho mấy đứa em ăn vài miếng bánh mì rồi đưa chúng đi ngủ trên cái sạp gỗ. Chẳng bao lâu, chúng ngủ say cả chỉ còn lại mình tôi. Bên ngoài trời tối thẳm, ánh đèn bên trong tàn dần, tôi lo sợ Ba Mẹ tôi bỏ đi mất, hai tay tôi bưng mặt khóc. Thình lình tôi nghe tiếng nói của Ba tôi và có một đám đông người đang đi vào nhà tôi, tôi chạy tung ra, Mẹ tôi đang ngồi trên ghế. Bà quấn một chiếc mền chung quanh bộ đồ ướt đẫm, nhiều bà con xóm giềng với Ba tôi và người đàn bà lạ mặt bên cạnh ông. Mùi bùn xông lên mũi tôi. “Ba tàn nhẫn lắm, Ba không được làm cho Mẹ ra thế này nữa”, tôi quát lên vì nghĩ rằng Ba tôi đã xô Mẹ tôi xuống mương. “Con lừa ngu xuẩn đó tự xô nó xuống mương đó”, Ba tôi trả lời. Tôi để ý thấy áo quần ông cũng bị ướt. “À, đó là tất cả lỗi của ba, Ba và người yêu của Ba”, tôi quay lại người đàn bà ngồi bên ông. “Bà đi ra khỏi nhà tôi ngay lập tức”. Các bà con xóm giềng lần lượt dời gót và cuối cùng Ba tôi và người đàn bà lạ mặt cũng đi luôn. Sau đó tôi hiểu được tất cả câu chuyện buồn tủi này: Mẹ tôi thình lình thấy Ba tôi và tình nhân của ông ngoài đường, bà theo họ, bà la lối và xô xát với họ gần mương. Một cuộc cãi vã dữ dội theo sau và Mẹ tôi kết thúc cuộc cãi vã bằng cách nhảy xuống mương bên dưới, Ba biết Mẹ không biết bơi nên ông đã nhảy xuống vớt bà lên.
Tôi lo sợ Mẹ tôi sẽ tìm đủ cách để kết liễu đời bà nên tôi không dám rời bà nửa bước. Sáng hôm sau là ngày Chúa nhật, Mẹ nói rằng Mẹ sẽ bỏ nhà ra đi. “Mẹ ơi, xin Mẹ đừng rời con, Mẹ ơi, Mẹ đừng đi, con lạy Mẹ, Mẹ đi con sẽ chết mất”. Tôi khóc đến nỗi Mẹ tôi hứa rằng bà sẽ không đi, nhưng tôi không tin lắm. Hôm đó, cô giáo trường Chúa nhật đã nghe được câu chuyện thương tâm của gia đình tôi nên cô rất tử tế với chị em chúng tôi.
Ngày thứ hai tôi đi học, nhưng tâm trí tôi không thể tập trung về bài học được. Tôi trông cho tới giờ tan học buổi chiều để chạy thẳng về nhà, bên cạnh tôi là con chó Bét-xi (Bessie) . Căn nhà hoàn toàn trống rỗng, không một bóng người, cũng chẳng thấy các em tôi đâu cả. Tôi thấy một miếng giấy kẹp lủng lẳng vào bình trà trên bàn -“Đo-rinh (Doreen) con, Mẹ phải bỏ nhà ra đi, Mẹ sẽ không trở lại nữa, con cố gắng ngoan ngoãn và trông hộ mấy đứa em cho Mẹ, đừng khóc nữa, nghe con -Thương con -Mẹ ”. Tôi cảm thấy như cuộc sống của tôi không còn nữa. Tôi đọc kỹ lại tờ giấy. Phản ứng đầu tiên của tôi là không tin rằng đây là sự thật, không thể thật được. Tôi gọi lớn: “Mẹ ơi, Mẹ ơi!”. Tôi chỉ nghe âm vang dội lại mà không thấy tiếng của người Mẹ yêu quý. Tôi không còn nhớ rõ thời gian tôi đứng đó bao lâu cho đến khi tôi bắt đầu khóc. Tim tôi như vỡ ra từng mảnh.
Tôi rời căn nhà vắng, hy vọng sẽ tìm ra người Mẹ yêu quý của tôi, tôi tìm ra Sin-vi-a (Sylvia), em gái tôi, nhưng chẳng thấy Mẹ đâu cả, không một ai biết, họ cũng chẳng thèm để ý Mẹ tôi đi đâu hay là bà đã đi khi nào. Bồng em bé theo, tôi đi khắp nơi nào tôi có thể đến được để tìm Mẹ. Tôi đã hoài công, cuối cùng tôi phải lủi thủi quay về nhà. Căn nhà trống vắng, không còn một chút đồ ăn nào cả. Chị em chúng tôi vừa lạnh, vừa sợ, vừa đói. Rồi Ba tôi về nhà, khi biết được Mẹ tôi đã đi, ông không một chút hối hận. “Sao Ba chẳng nói chi hết vậy? Ba đã làm Mẹ phải bỏ nhà ra đi… Ba và người đàn bà lý tưởng của Ba”, tôi nói. Ông trấn an tôi: “Ngày mai con sẽ có Mẹ mới, đừng lo”. Tôi mếu máo: “Con không muốn Mẹ mới nào hết, con muốn Mẹ thật của con thôi”. Ước mong của tôi chẳng được Ba tôi để ý vì ông đã quyết định rồi. Sau khi dẫn tôi ra quán cho ăn vài miếng, tôi trở về nhà, còn ông đến với tình nhân của ông.
Sáng hôm sau, quả thật, theo lời ông, ông dắt người đàn bà lạ mặt về thế chỗ cho Mẹ tôi. Bà còn đem theo hai đứa con riêng của bà về cùng, làm tôi càng giận hơn nữa. Với con mắt sắc bén, tôi biết bà đang mang thai. Tôi quát lên: “Bà là đồ đĩ ngoài đường nên bà mới đánh bẫy Ba tôi. Tôi sẽ chẳng bao giờ gọi bà bằng Mẹ tôi đâu, bà không phải là Mẹ tôi và sẽ không làm Mẹ tôi được”. Ba tôi nghĩ đứa con gái cau có của ông sẽ nguôi giận và nó sẽ ngoan ngoãn chấp nhận hoàn cảnh mới. Nhưng ông đã lầm. Mặc dầu mới mười một tuổi đầu, nhưng tôi đã có một ý chí cương quyết. Còn bà thì cố chinh phục tình cảm của tôi. Có lần bà đem kem táo cho tôi ăn nhưng tôi đã từ chối. Sự thù ghét giữa chúng tôi càng ngày càng nhiều. Tôi mơ ước trốn thoát như Mẹ tôi đã làm. Nhưng nếu tôi cũng đi như Mẹ thì ai săn sóc mấy đứa em tôi? Vì vậy, tôi chưa thể đi được.
Mũi tên đen
Người làm chủ trong nhà bây giờ còn trẻ hơn Mẹ tôi. Tôi tìm một tên riêng để đặt cho xứng hợp với con người bà ta và cuối cùng tôi bằng lòng với biệt danh “Mũi Tên Đen ”. Bà có một mái tóc đen huyền gợi cho tôi nghĩ bà như là một phù thủy, vì thế cái biệt danh Mũi Tên Đen rất xứng hợp cho bà. Điều này làm gây thêm rắc rối nhưng tôi không thể lựa một biệt danh nào khác. Ba tôi thuyết phục tôi chấp nhận bà, nhưng ông đã hoài công. Ông rất cần tôi chăm sóc cho lũ trẻ mỗi ngày để Mũi Tên Đen có thể luôn cặp Ba tôi đi ra quán rượu. Lúc này tôi càng nhớ sự chăm sóc của Mẹ tôi cho chúng tôi trước kia mà không một ai có thể thay thế Bà được. Tôi vẫn tiếp tục tìm kiếm Mẹ, đôi khi tôi đi hằng dặm. Đây không phải là chuyện dễ vì mỗi lần ra đi, tôi phải dẫn theo lũ nhỏ và con chó Bét-xi (Bessie) . Tôi ghé tiệm tạp hóa, quán nước, nhà sách… những mong sẽ bắt gặp được khuôn mặt của Mẹ hiền từ yêu dấu, nhưng tôi chẳng gặp được Bà. Báo chí bấy giờ đầy dẫy những tin tức chiến tranh và Mẹ tôi có thể đi bất cứ nơi nào và gặp bất cứ ai mà không cần phải sợ ai để ý. Xóm giềng chẳng buồn trả lời những câu hỏi của tôi vì họ xem tôi là một đứa con nít tai hại trong một gia đình bê bối.
Trong nhà quả thật là ồn ào. Trước hết, tôi chẳng ưa gì hai đứa con của Mũi Tên Đen. Tôi càng giận hơn nữa khi thấy ông bà nội của nó đến thăm, đem theo bánh và quà cho hai đứa mà chẳng hề đá động gì đến chị em chúng tôi. Tôi đọc được sự thèm khát trên đôi mắt các em tôi. “Đưa cho mấy đứa kia với”. Tôi ra lệnh và giựt cái xách lấy kẹo chia đều cho mấy em tôi, chúng la lối phản đối nhưng cuối cùng chúng phải chịu vì tôi là chị cả mà.
Những lúc rảnh, khi được ở một mình, tôi đi thăm Hạ Tím và nói với nó tất cả những sự buồn phiền của tôi với hy vọng rằng Hạ Tím đang ở từng mây nào đó có thể thấy được Mẹ của tôi. Một ngày kia, sau khi tan trường, trở về nhà tôi thấy Mũi Tên Đen đang đánh một đứa em tôi, tôi giận dữ tột độ. Tôi lấy một con dao và rượt đuổi Mũi Tên Đen khắp nhà. “Tôi sẽ giết bà, đồ phù thủy già, nếu bà còn đánh em tôi nữa”. Mũi Tên Đen dọa “Tao sẽ nói cho Ba mầy biết hành động của mầy đối xử với tao khi ổng về”. “Cứ nói với ổng tất cả những gì bà muốn nói, tôi không sợ, nhưng tôi cảnh cáo cho bà biết tôi sẽ làm gì nếu bà còn đánh em tôi nữa”.
Cái sân khấu trong gia đình bây giờ càng lộn xộn hơn nữa. Ba tôi thường đánh tôi. Trí óc ông mụ mẫm bởi rượu nên chẳng có gì ngăn cản ông được.
Chẳng bao lâu sau khi Mẹ ra đi thì chiến tranh chấm dứt. Mọi người ca hát vui mừng, cờ bay phất phới ở mọi nơi, mọi nhà, tôi hy vọng rằng sự bình an rồi cũng sẽ đến với gia đình tôi. Mẹ tôi đã chẳng đổ lỗi cho chiến tranh nên Ba tôi mới đâm ra say sưa như thế sao? “Có lẽ Ba sẽ hết uống rượu và Mẹ sẽ trở về với gia đình”. Thế nhưng, mỗi ngày một tệ hơn, rượu như là nguồn sống của ông. Một bữa tiệc ăn mừng chấm dứt chiến tranh, tôi chưa bao giờ được ăn bữa tiệc như vậy. Chúng tôi còn được cho quà nữa. Đó cũng là năm có nhiều kỷ niệm cho tôi. Vì cớ tôi mau lớn quá, nên nhà trường cho tôi lên học trường trung học. Thật là một sự thay đổi lớn. Tôi rất hãnh diện, tuy nhiên, sự xuất hiện của tôi nơi trường mới cũng gây nhiều vấn đề rắc rối. Tôi ăn mặc rách rưới khiến các học sinh khác chế giễu. Tôi nghĩ “Có cái gì tốt hơn ở trường này chứ?”. Ba tôi và Mũi Tên Đen không có lo lắng giùm tí nào cho nan đề của tôi. Một lần nữa, tôi tự đương đầu với những khó khăn mà không một lời khuyến khích. Tuần lễ đầu tiên tại trường học mới, tôi chịu bao nhiêu lời chế giễu: “Đồ khố rách, đồ du mục nhớp nhúa!”. Tôi cố gắng xua đuổi những điều mà mấy đứa trẻ khác nói và nghĩ về tôi và tôi quyết định lấy lòng cô giáo bằng cách đem hoa tới tặng cô. Mặc dầu tôi không tệ lắm trong việc học hành, nhưng cứ bị cho là ngu đần. Tôi chẳng thấy những cố gắng của tôi có tác động ít nhiều gì cả. Tôi chẳng bao giờ thắng nếu tôi cố gắng chứng tỏ rằng tôi cũng biết đôi điều thì lũ trẻ ồ ồ lên “Mầy là con nhỏ lường gạt nhớp nhúa!”. Điều tốt nhất là cứ phớt tỉnh coi như không có gì cả được chừng nào hay chừng ấy. Tôi ghét trường học từ ngày tôi bước.

Mọi bài vở cộng tác và góp ý xin gửi vềinfo@nguonhyvong.com