Dòng họ ROTHSCHILD, Bill Gates, Estee Lauder và George Soros, … nếu như tiếp tục danh sách những người giàu có nhất thế giới, thì phải mất nhiều trang giấy. Nhưng, ngoài những thành công đến mức gần như cổ tích hoang đường trong tài chính kinh doanh, những con người nói trên còn có một điểm giống nhau chung khác nữa – đó là nguồn gốc Do-thái của họ.

Dù cho điều này có lạ lùng đến thế nào đi chăng nữa, thì trong số những con người giàu có nhất, hầu như ở nước nào trên thế giới cũng vậy, đều có rất nhiều những người Do-thái. Tại sao lại như vậy? Tại sao thành công và tiền của lại ưa thích người Do-thái đến như vậy? Hay là những người dân tộc này có được trong tay những bí quyết làm giàu đặc biệt mà chỉ họ mới có? “Sự kiện là một điều không thể chối cãi được” – người ta thường nói như vậy. Và sự kiện thực tế chỉ ra cho thấy là một số lượng lớn những người rất giàu có như vậy (trong một dân tộc rõ ràng còn xa mới có thể gọi là đông dân trên thế giới) không thể nào là một sự tình cờ ngẫu nhiên được. Những nhà bác học nghiên cứu những điều răn cơ sở đạo đức của Do-thái giáo, và họ đã tìm khám phá ra rằng đa số những điều răn trong số 613 điều răn mà người Do-thái phải tuân thủ từ thuở xa xưa đến giờ, đến tận ngày hôm nay vẫn còn nguyên tính thời đại và thực tế quan trọng của chúng. Có phải chăng là chính những điều răn và quy tắc sống đó, nằm trong máu tuỷ của người Do thái và được giữ nguyên truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, đã giúp cho họ đạt được những thành công to lớn như vậy trong kinh doanh? Xin phép được giới thiệu tóm tắt với bạn đọc những ý tưởng cơ bản của những nguyên tắc vàng trong làm ăn kinh doanh đó.

1. Hãy coi tài sản của bạn mình cũng quý giá như của chính mình .Nếu người nào sống trung thực trong công việc làm ăn của mình và được người khác tôn trọng, thì người đó được đánh giá như là đã tuân thủ trọn vẹn những lời răn dạy của bộ Tora. Nhiều người cho rằng sống đạo nghĩa là biết giữ và tuân thủ theo những lễ nghi tôn giáo. Nhưng trong tiêu chuẩn của người Do-thái, theo quyển sách dạy sống đạo Talmud của họ, thì thái độ trung thực của con người trong công việc cũng quan trọng giống như đòi hỏi tuân thủ những điều răn của Tora. Thậm chí trong sách Talmud đó còn ghi rằng, khi con người kết thúc cuộc sống của mình trên đất, đến trước mặt toà án thiên thượng để chờ đợi bản phán quyết về số phận của mình, anh ta sẽ phải trả lời câu hỏi: “Ngươi đã sống trung thực trong công việc của mình không?” Trong sách Tora có chép rằng, điều kiện để cho người Do-thái còn được sống trong đất hứa, đó là những người lái buôn của họ sẽ không lừa gạt khách hàng của mình. Phục truyền 25:15 “Phải dùng trái cân đúng thật và công bình, cũng phải có ê-pha đúng thật và công bình, để ngươi được sống lâu trên đất mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi ban cho ngươi…” Một ông Rabbin Iosi người Do-thái đã có một lời khuyên mà có thể áp dụng được trong mọi hoàn cảnh: “Hãy coi tài sản của bạn mình cũng quý giá như của chính mình”. Tất nhiên, những lời dựa trên nền tảng của Quy Tắc Vàng: “Hãy yêu kẻ lân cận như mình”. Ai đó có thể nghĩ rằng vừa giữ theo Quy Tắc Vàng vừa làm ăn kinh doanh là không thực tế, thậm chí còn quá ngây thơ nữa. Chính vì lý do đó mà họ muốn đánh giá đạo đức con người theo việc tuân thủ những nghi lễ tôn giáo mà thôi. Vì như thế thì dễ sống thực dụng hơn là việc giữ theo tiêu chuẩn đạo đức cả trong tôn giáo cả trong công việc kinh doanh hàng ngày. Thế nhưng truyền thống của người Do-thái luôn nhấn mạnh điều này. Trong một đoạn Thi thiên 116 có câu “Tôi sẽ đi trước mặt Đức Giê-hô-va tại đất kẻ sống.” Những thầy Rabbin dạy luật của người Do-thái trước kia rất chú ý về một đoạn câu nói “tại đất kẻ sống”, vì theo lời của ông Rabbin Giehuđa, rất nổi tiếng trong thời của mình, thì cách nói đó có ý nghĩa “là một chỗ như là chợ để buôn bán” (theo Talmud Babylon). Nghĩa là có thể xét xem đức tin của một con người có thật không theo cách cư xử của anh ta nơi phố chợ, chứ không phải là nơi nhà hội. “Chỉ có người nào có thể tin cậy được trong công việc mới có thể coi là một người sống tin kính đạo đức”…

2. Đừng mua đồ ăn cắp Cốt lõi của nguyên tắc này là những suy nghĩ sáng suốt lành mạnh. Thí dụ, nếu một người bán hàng đón gặp bạn ngoài đường rồi đề nghị bạn mua những đồ ăn thức uống với giá chỉ bằng một nửa, lại còn đem chở đến tận nhà nữa. Bạn không có cách nào để kiểm tra xem người đó đã kiếm được những mặt hàng đó một cách trung thực hay không. Nhưng trong những trường hợp này, luật của người Do-thái đòi hỏi bạn phải coi người đó là không trung thực, và phải tránh không mua hàng của họ. Thông thường, người mua đồ ăn cắp không tự coi mình là người không trung thực, và vẫn cho rằng mình còn tốt hơn gấp vạn lần loại người mà đang bán hàng cho họ. Thế nhưng luật của người Do-thái không đồng tình với quan điểm trên: “Cấm không được mua của kẻ trộm những tài sản nó ăn cắp được. Đó là tội lỗi, vì nó khuyến khích kẻ tội phạm và thúc giục kẻ trộm lại ăn cắp tài sản của người khác.” Cuối thập kỷ 80 trên thị trường tài chính NewYork xảy ra một vụ tai tiếng lớn về việc mua đồ ăn cắp. Một nhà doanh nghiệp bỏ tiền ra để mua chuộc những nhân viên của các công ty luật và tài chính để có được thông tin về thời điểm các công ty mà ông ta có quan hệ làm ăn sẽ được đem ra bán. Biết rằng cổ phần của các công ty này sẽ lên giá nhiều, ông ta đã thu mua hết chúng và trong vài năm sau đó thu được nhiều triệu đô-la tiền lời. Thế nhưng khi vụ này phát lộ ra, ông ta và những người đã bán thông tin cho ông ta đã bị đưa ra trước pháp luật. Mua lại thông tin từ những người không có quyền sở hữu hay là bán nó – đó cũng một hình thức khác của việc tìm cách mua đồ ăn cắp. Nói một cách đơn giản – nếu ai đó tìm cách bán cho bạn cái gì không thuộc quyền sở hữu của anh ta – thì bạn không được quyền mua nó. Như trong sách Châm ngôn có nói: “Kẻ nào chia phần với kẻ trộm thù ghét chính linh hồn mình” (Châm ngôn 29:24)

3. Hãy làm những việc lành Dù trong luật pháp và truyền thống của người Do-thái việc bố thí tiền bạc được đặt vị trí rất cao, nhưng làm những việc lành bao giờ cũng được coi là quan trọng hơn Các việc lành coi trọng hơn là bố thí bởi ba lý do: – Việc bố thí chỉ dùng tiền bạc, nhưng việc lành vừa dùng tiền bạc, lại vừa có sự tham gia của cá nhân – Việc bố thí chỉ làm cho những người nghèo, trong khi việc lành có thể làm cho cả người nghèo và người giầu. – Việc bố thí chỉ làm cho những người đang sống, trong khi các việc lành có thể dành cho cả những người đang sống và những người đã chết. Luật Do-thái đánh giá cao việc làm những điều lành. Thật đúng như vậy vì đó là một việc khó khăn. Càng thêm năm tháng thì nhiều người trong số chúng ta đi đến ý nghĩ cho rằng thà hy sinh tiền bạc còn hơn là thời gian, vì vậy nên truyền thống Do-thái dạy rằng món quà quý giá nhất đó là thời gian và tấm lòng nồng hậu.

4. Đừng lười làm việc tốt Một điểm chung của những người có thái độ thờ ơ không muốn giúp đỡ người khác, đó là sự bủn xỉn, thể hiện ra khi người có của không giúp kẻ bần hàn. Thế nhưng, thường xuyên gặp hơn cả là người ta không giúp đỡ người khác không phải vì sự bủn xỉn, mà là vì sự lười nhác. Không làm việc lành cho người khác chỉ vì sự lười biếng của bản thân chính là sự ích kỷ. Những việc lành đôi lúc phải đòi hỏi nhiều công sức và cố gắng, nhưng nó thật sự xứng đáng để được dành thời gian cho nó!

5. Đừng nói dối Hãy luôn nhớ rằng trên đầu ta luôn có một cặp mắt đang dõi theo… Có một lần một thầy Rabbin đi nhờ xe ngựa kéo của một người. Đang đi giữa đường qua một cánh đồng đầy hoa quả ngon lành, bỗng nhiên người chủ xe dừng lại (không biết người mình đang chở trên xe là ai) và nói: “Tôi muốn hái ít hoa quả của cánh đồng này. Nếu thấy có ai đến gần thì ông kêu lên nhé.” Anh ta đi vào cánh đồng, ông Rabbin bỗng nhiên la lên: “Người ta thấy hết rồi, người ta thấy hết rồi!” Hoảng sợ, anh chàng kia nhay lên xe và họ chạy đi. Được một đoạn anh ta ngoảnh lại và không thấy ai đuổi theo cả. “Tại sao ông lại la lên lúc nãy. – Anh ta tức giận hỏi ông Rabbin. Có ai nhìn thấy chúng ta đâu?” Khi đó Rabbin chỉ tay lên trời và nói: “Chúa Trời đang theo dõi đấy. Chúa Trời bao giờ cũng luôn theo dõi.”

6. Hãy ban cho với lòng vui mừng Theo luật của người Do-thái, không được phép ban phát của bố thí với nét mặt không vui, mà phải thể hiện lòng tốt của mình ra với người nghèo. Trong quyển Mishna Tora một Rabbin nổi tiếng đã viết: “người ban của bố thí mà cau có không vui lòng thì làm một việc không xứng đáng, cho dù anh ta có ban phát cả ngàn đồng bạc. Bởi vì anh ta phải ban cho với lòng tốt, vui mừng, và thương cảm với tình cảnh của người đang gặp khó khăn” Tất nhiên tiền bạc đóng một vai trò quan trọng, nhưng thậm chí khi không có gì để cho cả, vẫn có thể ban phát lòng tốt của mình.

7. Khi có người đến xin và nói “tôi đói” Trong một thành phố lớn có rất nhiều người ăn xin dọc đường. Điều đó không dễ chịu chút nào. Trong trường hợp đó phải biết cư xử như thế nào? Sách Talmud của người Do-thái cũng cho lời khuyên cư xử cho những ai gặp phải những người ăn xin, rằng nếu người ta đến xin quần áo vật dụng, thì phải tìm hiểu kỹ xem người đó có thật sự thiếu thốn không, nhưng nếu người ta đến xin ăn, thì không cần tìm hiểu gì cả (phải tìm cách cho người ta ăn ngay lập tức, vì có thể người kia sẽ kiệt sức chết đói trong khi tra hỏi tìm hiểu) Nhưng làm thế nào khi ta không thể xác định được kẻ ăn xin đó có nói thật hay không? Có thể hắn dùng tiền đó để đi mua rượu hay thuốc kích thích? Một Rabbin đã nói như sau: “Tôi luôn vui sướng khi có cơ hội để bố thí, cho dù trong cả trăm người ăn xin chỉ có một người thực sự là cần. Nhưng có một số người cư xử cứ như là trong một trăm người có thể có một kẻ lừa đảo, cho nên họ tự cho mình quyền không bố thí”. Chính xã hội tiên tiến ngày nay nhận thức được tầm quan trọng lớn lao của công việc từ thiện để ổn định các quan hệ xã hội và giữa các tầng lớp, cho nên càng nhiều tổ chức và hàng triệu người trên thế giới tham gia các hoạt động từ thiện.
8. Đừng lãng phí thời gian vô ích
Mặc dù là còn có rất ít thời gian rảnh, một số người vẫn tìm mọi cách để giết nốt nó: bật TV lên, hoặc ngồi không chẳng lảm gì cả. Nhưng đấy không phải là chúng ta giết thời gian, mà thời gian trống đang giết chúng ta. Trong năm phút đó có thể lấy một quyển sách đọc được vài trang, hoặc nhớ lại một số ý tưởng.
Giám đốc trường đại học Yeshiva có một lần đưa vào thực nghiệm những lớp học đặc biệt chỉ có năm phút. Thậm chí cả những người sống ở xa cũng phải đến dự những lớp đó. Ông thầy Rabbin giải thích: “Tôi muốn để các bạn hiểu được rằng – thậm chí chỉ năm phút cũng làm được một điều gì đó.”
Trong quyển sách của German Vuk “Sự nổi loạn của Ca-in”, Villy, nhân vật chính, nhận được một bức thư từ cha mình. Đang chết dần vì bệnh ung thư, ông ta suy ngẫm về cuộc đời mình, về việc ông đã đạt được ít hơn nhiều so với sự trông đợi, và ông cảnh báo đứa con mình: “Nếu có thể được, con hãy ghi nhớ: không có gì, không có gì, không có bất cứ điều gì giá trị hơn thời gian. Có thể con nghĩ rằng con còn có nhiều thời gian dự trữ lắm, song thực ra không phải thế. Những tiếng đồng hồ lãng phí phá hoại cuộc đời con cả lúc trẻ, cũng như lúc gần kết cục, chỉ có điều lúc gần kết cục con sẽ cảm thấy rõ hơn và nhận thức tốt hơn mà thôi.”
Để áp dụng vào kinh doanh có thể nói rằng con người không tiêu phí thời gian, mà đầu tư nó. Vì vậy thời gian cũng giống như tiền, có thể xử dụng như một nguồn tài nguyên, mà nếu được dùng vào những hành động đúng dắn, sẽ từng bước từng bước đưa bạn đến gần những mục tiêu quan trọng của cuộc đời. Cùng lúc đó, cách xử dụng thời gian không đúng sẽ đẩy xa bạn ra khỏi việc hoàn thành những mục đích cuộc sống. Nếu tiền có thể tích góp dưới dạng tiết kiệm, thì thời gian, thật đáng tiếc thay, không thể tích góp được mà sử dụng trong tương lai. Thời gian đi mà không bao giờ trở lại, và điều duy nhất thuộc quyển của chúng ta – đó là không đánh mất nó vô ích.

9. Hãy tránh xa người láng giềng xấu.
Sách To-ra kể rằng người cháu của Áp-ra-ham là Lót đã sống nhiều năm gần ông chú mình. Sau đó cậu đã chuyển nhà đến thành Sô-đôm, là thành phố mà trong To-ra là biểu tượng của sự ác. Và mặc dù Lót chưa bao giờ giống như những người láng giềng của mình, cảm giác giống như là ông đã bị nhiễm một số điểm tính cách của họ. Vì, khi người dân thành phố đòi hỏi Lót phải đưa hai người khách cho họ lăng nhục, thì ông từ chối, nhưng thay vào đó, ông lại cư xử rất hèn hạ bằng cách đưa ra cho họ hai đứa con gái còn đồng trinh của mình. Khi Đức Chúa Trời hủy diệt thành Sô-đôm, Ngài đã đến cứu Lót, nhưng chưa chắc đã phải vì cớ ông này là người tin kính, mà là vì ông là cháu của Áp-ra-ham.
Do-thái giáo cho rằng ảnh hưởng của môi trường xung quanh là rất lớn. Trong một đoạn khác của To-ra, có kể về chuyện con cháu Cô-rê thuộc chi phái Lê-vi và cả 250 người con từ chi phái Ru-bên đã liên kết với nhau để chống lại Môi-se. Nhưng người giải kinh To-ra suy nghĩ nhiều về vấn đề làm thế nảo để xảy ra chuyện con cháu Cô-rê đã liên kết được với những kẻ đồng mưu kia. Ông Rashi, một thầy giải kinh thế kỷ thứ mười một, đã giải thích thế này: trong thời gian đi trong đồng vắng, Cô-rê và gia đình đã sống vách liền vách với các con cái nhà Ru-bên. Dựa trên những gì chúng ta được biết từ To-ra, có thể đưa ra kết luận rằng Cô-rê đã dùng lời hùng biện mà gây ảnh hưởng lên những láng giềng của mình và họ đã liên kết với cuộc nổi loạn của ông ta. Ngay sau đó Đức Chúa Trời đã hủy diệt Cô-rê và những kẻ đồng lõa. Trong sách Mishne có lời chép (trong một ngữ cảnh khác) “khốn thay cho kẻ ác và láng giềng của hắn.”
Như những câu chuyện về Lót và Cô-rê cảnh báo chúng ta, cái ác có thể có ảnh hưởng mạnh hơn cả cái tốt. Thí dụ, “một đứa trẻ hư” dễ dụ dỗ “đứa trẻ ngoan” dùng ma túy hơn là “đứa trẻ ngoan” giáo dục được “đứa trẻ hư”. Đối với người lớn cũng vậy thôi. Thời đó Lót đã chẳng làm cho các láng giếng mình được tốt lên, nên ông đã không tránh được ảnh hưởng của họ.
Hãy tránh xa những người láng giếng xấu. Và, quan trọng hơn cả, là hãy để ý làm sao cho con cái bạn cũng biết cư xử như vậy.

10. Đừng nói gì, nếu không có gì để nói
Có một lần một thành viên trẻ nghị viện đã hỏi lời khuyên của Bên-gia-min Diz-ra-e-li, thủ tướng Anh quốc thời thế kỷ XIX, khi nào thì nên lên tiếng trong các vấn đề tranh cãi.
– Anh có thể nói một điều gì mới, mà trước kia anh chưa nói không?
– Không, tôi chỉ muốn người đi bầu được biết về việc tôi tham gia vào các cuộc tranh luận.
– Thế thì hãy im lặng, chẳng thà để mọi người nói về anh: “Thật thú vị, không biết anh ta nghĩ về vấn đề đó như thế nào”, còn hơn là để họ nói: “anh ta phát biểu thế để làm gì cơ chứ?” – ông thủ tướng trả lời.
Theo quan sát của ông Diz-ra-e-li, một số người lên tiếng phát biểu chỉ để cho mọi người chú ý đến sự có mặt của họ mà thôi. Có một lần ông Mal-bim (Leib Ben Jakhin Michael), một nhà bình luận To-ra nổi tiếng thế kỷ XIX và một giảng viên, đã có mặt tại một bài giảng dài dòng và vô bổ của một người về chủ đề sự suy xét nhạy bén và những quan điểm về tương lai. Cảm thấy là mình đang lãng phí thời gian, ông Mal-bim nhận xét: “sách Truyền đạo có đưa ra hai mươi hai đôi đối kháng bất di bất dịch, thí dụ như “có kỳ yêu và có kỳ ghét” hay là “có kỳ khóc và có kỳ cười”. Nhưng trong các trường hợp đó đều có cả vị trí trung gian nữa. Có thể không yêu mà cũng không ghét, hoặc không khóc mà cũng không cười. Nhưng có một đôi mà luôn luôn khiến tôi phải thực sự suy nghĩ: “có kỳ im lặng và có kỳ nói”. Cho đến ngày hôm nay tôi chưa hiểu nổi đâu là điểm trung gian của đôi đối kháng này. Nhưng, sau khi nghe bài phát biểu hôm nay, tôi hiểu rằng người ta có thể nói (không giữ sự im lặng) và cùng lúc đó chẳng nói lên điều gì cả!”

11. Hãy hạn chế cơn thịnh nộ của mình, chỉ nên giận hoàn cảnh bất lợi mà thôi.
Cơn giận làm lu mờ trí khôn, còn cơn thịnh nộ phá hủy nó. Tal-mút dạy rằng: khi người khôn đánh mất sự tự kiềm chế, anh ta cũng đánh mất cả trí khôn mình. Thí dụ, trong sách Dân số ký có kể trường hợp xảy ra với Môi-se, một nhà tiên tri vĩ đại nhất trong số các tiên tri. Đức Chúa Trời phán truyền với ông rằng ông phải ra lệnh (nói) với tảng đá, để nó chảy nước ra. Đầy bực tức vì sự lằm bằm thường xuyên của người do-thái, Môi se đã giơ gậy đập vào tảng đá và la lên: “Hỡi dân phản nghịch! hãy nghe, chúng ta há dễ khiến nước chảy từ hòn đá nầy ra cho các ngươi được sao?”
Trong cơn thịnh nộ chúng ta có xu hướng hành động đột ngột và nói những điều ngu xuẩn. Từ “chúng ta” có thể khiến liên tưởng rằng chính Môi-se và người anh của ông sẽ làm ra phép lạ. Môi se không muốn như vậy, nhưng người Y-sơ-ra-ên có thể nghĩ rằng chính tiên tri và anh của ông là thần. Môi-se đã bị phạt một cách rất nghiêm vì sự bùng nổ cơn thịnh nộ của mình: Đức Chúa Trời đã không cho phép ông được đặt chân và Đất hứa (Dân số ký 20:12). [từ ND & BBT: một lỗi nữa của Môi-se là ông không chỉ nói với hòn đá, mà còn giơ gậy lên đập vào nó. Nếu ông chỉ nói, mà hòn đá chảy nước ra thì thật rõ ràng là phép lạ của Chúa Trời, còn khi ông đã đập cây gậy, thì người ta có thể nghĩ rằng đấy là ông đã biết chỗ có mạch nước và dùng cây gập đập vỡ hòn đá cho nước chảy ra mà thôi.]
Các bạn có thể nhớ ra được lúc nào trong cơn thịnh nộ bạn đã nói một điều mà sau đó phải hối tiếc không? Nếu không, có lẽ bạn có trí nhớ quá là kém.
Khi đánh mất sự tự kiềm chế, chúng ta thường chuyển sang tấn công cá nhân. Nhiều người xử dụng những cụm từ “cả đời”, “luôn luôn” (“Cả đời mày chẳng gì cho đúng được”), hoặc “chẳng bao giờ” (“Anh chẳng bao giờ biết nghĩ đến ai hết, chỉ biết nghĩ về mỗi mình thôi”).
Những lời tấn công như vậy làm mất lòng người ta. Anh ta sẽ không thể không nhận lỗi mình mà không thừa nhận sự vô tích sự hoàn toàn của mình: (“Đúng rồi, tôi cả đời chỉ làm hỏng việc thôi”), hoặc sự ích kỷ của mình (“Đúng rồi, tôi là kẻ ích kỷ đến tận xương tận tủy, tôi chỉ lo nghĩ đến mình mà thôi”).
Quan trọng nữa là những lời tấn công đó là bất lịch sự, vì đó là điều dối trá. Chẳng có thể nào có chuyện người mà bạn mắng đó lại tồi tệ đến mức đó.
Hãy tuân thủ những nguyên tắc giúp ta kiểm soát được cảm xúc (và lưỡi mình): hãy hạn chế cơn thịnh nộ, có tức giận thì chỉ tức giận hoàn cảnh xấu thôi. Giận bao nhiêu tùy thích, nhưng những lời nói ra chỉ hướng tới đúng những hoàn cảnh đã chọc giận bạn thôi. Khi đó bạn sẽ không nói những lời mà có thể sẽ vĩnh viễn xúc phạm người khác. Những từ kiểu như “luôn luôn” hoặc “chẳng bao giờ” và xu hướng muốn “chụp mũ” (chỉ tổng quát cái xấu) sẽ khiến người ta nói ra những lời rất khó tha thứ và không thể nào quên đi được.
Nếu bạn có tính nóng nảy, hãy cố nghe theo lời khuyên khôn ngoan của một nhà thơ và một nhà triết học thế kỷ thứ XI Sa-lô-môn-Ibi-Gáp-ri-ên: “Tôi có thể từ chối những lời mình chưa nói ra, nhưng chẳng thể nào lấy lại được những gì đã nói.”

12. Hãy xét khoan hậu về mọi hành động của người khác
Bạn có biết câu thành ngữ “Hãy xét khoan hậu về mọi hành động của người khác” chưa? Nếu chưa, thì có thể qua những bản dịch khác không hoàn toàn chính xác: “Hãy xét khoan hậu mọi người”, hoặc “Nếu còn phân vân, hãy giải quyết tốt cho người ta”.
Một thái độ cư xử như vậy có thể bị coi là thiếu suy nghĩ. Liệu chúng ta có phải đối xử khoan hậu với kẻ trộm bây giờ đang muốn xin vào làm người thu ngân ở ngân hàng? Người phụ nữ phải trả lời gì với lời đề nghị của người đàn ông, mà vợ anh ta mới đòi ly dị vì bị đánh đập? Liệu cô ta có nên theo nguyên tắc: “nếu còn phân vân, hãy giải quyết tốt cho người ta”?
Trong thực tế, dịch cho đúng ý hơn câu thành ngữ đó phải là: “Hãy xét khoan hậu về mọi hành động của người khác”. Nói một cách khác, khi đánh giá về cư xử của một người khác, đừng chỉ nghĩ về một hay là hai hành động xấu, mà phải chú ý đến cả những điều tốt mà con người đó đã làm nữa. Thí dụ, cách đây không lâu trong một tạp chí có một bài báo ra mắt để phê phán ông Oscar Shindler, trong đó chủ yếu kể về những chuyện đeo đuổi phụ nữ của ông ta. Thêm vào đó, trong thời kỳ Thế chiến lần thứ hai, Shindler cũng chẳng có gì nổi bật về những nguyên tắc trong quan hệ làm ăn.
Thực tế là ông ta cũng có những mặt tiêu cực. Nhưng ông đã liều mạng để cứu thoát hưon 1150 người Do-thái khỏi tay phát-xít. Sự liều mình hy sinh của ông quan trọng hơn nhiều mọi thiếu sót, và chúng ta phải tính đến điểm này.
Luân lý Do-thái dạy: nếu bạn biết nhiều điểm tốt về con người và bỗng nhiên gặp phải chuyện anh ta đã phạm một sai lầm, thì đừng vội khinh thường người đó. Tốt hơn cả là hãy cố hiểu vì sao anh ta lại cư xử như vậy. Hãy tìm lý do để bào chữa cho hành động của anh ta.

Mọi bài vở cộng tác và góp ý xin gửi về info@nguonhyvong.com