Tác giả: Loren Cunningham & Janice Rogers

VUA CHỨNG KHOÁN WALL STREET

“Còn như kẻ muốn nên giàu có ắt sa vào sự cám dỗ, mắc bẫy dò, ngã trong nhiều sự tham muốn vô lý thiệt hại kia, là sự làm đắm người ta vào sự hủy diệt . Bởi chưng sự tham tiền bạc là cội rễ của mọi điều ác ” (ITi1Tm 6:9-10).
Đó là vào năm 1851. California chỉ vừa mới trở thành tiểu bang được hơn một năm. Nhưng đã có một thứ màu vàng sáng và lấp lánh được tìm thấy trong các con sông chưa bị đào phá ở phía Bắc. Thứ đã bắt lấy con người ta và làm thay đổi đời sống họ. Vàng!
Một người đàn ông, Đại tá Reddick Mc Kee được cử đến để đứng đầu một trong ba nhóm khảo sát do Nha Sự Vụ Anh Điêng chỉ định. Nhóm của ông ta đã lần theo con đường tiến lên phía Bắc dọc theo sông Klamath đến thung lũng Scott, quê hương của người Da đỏ Shasta. Họ được những người Mỹ bản xứ tại đó tiếp đón một cách nồng hậu, những người nầy cũng đã đối xử rất tử tế với một vài người khai thác mỏ đã đến đây trước đó. Không giống phần nhiều các bộ tộc hiếu chiến, người dân Shasta lịch sự và thân thiện, giản dị và có lòng tin cậy.
Đại tá McKee triệu tập một buổi mít ting với người dân Shast để thảo ra một hiệp ước, tức là một thỏa thuận nhằm cho phép họ có những quyền hạn khi có thêm nhiều người da trắng đến đây, vì việc tìm vàng, một làn sóng người chắc chắn gia tăng, McKee và chính quyền biết rõ điều đó. Có ba ngàn chiến sĩ người Shasta hưởng ứng lời kêu gọi triệu tập buổi mít ting của ông và cắm trại gần Fort Jones.
Cuối cùng, các thỏa thuận đã hoàn tất và 13 tù trưởng người Shasta ký vào hiệp ước cùng với đại tá McKee và các nhân chứng khác.
“Và bây giờ, chúng tôi muốn mời các bạn trở thành các vị khách quý của chúng tôi trong một một buổi đại tiệc!”. Đại tá McKee tuyên bố qua thông dịch viên để bày tỏ với đám đông dân Da đỏ này. “Chúng ta gọi đó là một buổi liên hoan ngoài trời, ăn thức ăn nướng! Chúng tôi muốn đãi các bạn một bữa đặc biệt để đánh dấu cho tình bạn của chúng ta”.
Có một số người Da đỏ không đến dự buổi liên hoan ngoài trời. Họ không tin Đại tá McKee và những người da trắng. Nhưng phần lớn dân chúng đều đến trong ngày ấy. Hàng ngàn người Da đỏ ngồi đầy những chiếc bàn dài, nhận các đĩa thức ăn đầy thịt thái mỏng mới nướng kèm với các ổ bánh mì nhỏ. Họ ngồi trong ánh nắng khô lạnh của tiết trời mùa thu theo từng nhóm nhỏ và bắt đầu ăn. Chỉ một vài người để ý rằng các vị chủ tiếp đãi họ, những người da trắng là không ăn gì cả. Một vài phụ nữ Da đỏ đã kết hôn với những thợ khai thác mỏ cũng không ăn gì cả.
Qua ngày sau, một bác sĩ trên chiếc xe ngựa đi qua thung lũng Scott nhìn thấy những hình thù kỳ dị ở bên đường. Người đánh xe dừng lại và vị bác sĩ vội vàng leo ra, ông kinh khiếp đến buồn nôn khi nhận ra những đống hình thù kỳ dị ấy chính là những xác chết. Trong đời ông chưa bao giờ chuẩn bị để thấy những gì ông đã nhìn thấy trên đường trong buổi sáng hôm ấy. Hàng trăm người Da đỏ chết nằm la liệt dọc theo con đường mòn, thi thể của họ vẫn còn biểu hiện của sự quằn quại đau đớn cực độ.
Thoạt đầu vị bác sĩ e rằng họ đã chết vì một loại bịnh dịch nào đó. Song họ chết trên đường từ bữa tiệc liên hoan về nhà! Họ là nạn nhân của thịt bò bánh mì có tẩm thuốc độc Stricnin. Trước khi chiều tối, bác sĩ và những người khác đã tìm thấy hơn 300 xác chết. Một trong số ít ỏi những người Da đỏ còn sống sót, Tyee Jim đã chôn cất những xác chết đó. Bản tin nầy được tường thuật trên tờ Alta News, từ Alta tiểu bang California, đề ngày 5 tháng 11 năm 1851. Không có một cuộc điều tra chính thức nào về cuộc tàn sát nầy được xúc tiến. Những con người Da đỏ Shasta không còn nữa. Rốt cuộc thì điều đó đơn giản hơn nhiều so với việc phải bận tâm đến các hiệp ước cùng với các quyền lợi về đất đai trong thời mà người ta đổ xô đi tìm vàng ở California.
Câu chuyện khủng khiếp về việc thảm sát người Da đỏ Shasta đã xảy ra chỉ tiêu biểu cho một phần rất nhỏ những tội ác ra từ satan kể từ buổi khai thiên lập địa. Tội ác thường đi đôi với lòng tham của cải. Nếu không cẩn thận, chúng ta có thể bỏ qua câu Kinh Thánh mà chúng ta được nghe rất nhiều lần. Câu Kinh Thánh ấy phán như vầy: Vì lòng yêu tiền bạc là cội rễ của mọi điều ác .
Exe Ed 28:12-19 cho chúng ta một cái nhìn thoáng qua có sức hấp dẫn lớn về quá khứ, trước khi Luxiphe nổi loạn và trở thành Satan. Hãy chú ý lòng tham mê giàu sang bằng cách này hay cách khác có liên quan đến sự chống nghịch của hắn. Cũng vậy, bạn hãy chú ý đến sự sang trọng được mô tả sau đây:
Hỡi con người, hãy làm một bài ca thương về Vua Tyrơ và nói cùng người rằng: Chúa Giêhôva phán như vầy Ngươi gồm đủ tất cả, đầy sự khôn ngoan, tốt đẹp trọn vẹn . Ngươi vốn ở trong Eđen, là vườn của Đức Chúa Trời . Ngươi đã có đầy mình mọi thứ ngọc báu, là ngọc mã não, hoàng ngọc, kim cương, lục ngọc thạch, hồng ngọc, ngọc thạch anh, ngọc lam,bích ngọc và ngọc lục bảo . Nghề làm ra trống cơm ống sáo thuộc về ngươi . Tất cả đều cân trên vàng ròng và được ban cho ngươi trong ngày ngươi được sáng tạo . Ngươi là một Chêrubin được xức dầu đương che phủ, ta đã lập ngươi lên trên hòn núi thánh của Đức Chúa Trời, ngươi đã đi dạo giữa những hòn ngọc sáng như lửa . Đường lối ngươi trọn vẹn từ ngày ngươi được dựng nên cho đến lúc thấy sự gian ác trong ngươi .
Nhơn ngươi buôn bán thạnh lợi, lòng ngươi đầy sự hung dữ, và ngươi đã phạm tội . Vậy ta đã xử ngươi như là vật ô uế xuống khỏi núi Đức Chúa Trời, hỡi chêrubin che phủ kia, ta diệt ngươi giữa các hòn ngọc sáng như lửa!
Lòng ngươi đã kiêu ngạo vì sự đẹp ngươi, và sự vinh hiển của ngươi làm hư khôn ngoan mình . Ta đã xô ngươi xuống đất, đặt ngươi trước mặt các vua, cho họ xem thấy . Ngươi đã làm ô uế nơi thánh ngươi bởi tội ác ngươi nhiều quá và bởi sự buôn bán ngươi không công bình, ta đã khiến lửa ra từ giữa ngươi, nó đã thiêu nuốt ngươi và ta đã làm cho nguơi trở nên tro trên đất, trước mặt mọi kẻ xem thấy . Hết thảy những kẻ biết ngươi trong các dân sẽ sững sờ về ngươi . Kìa ngươi đã trở nên một cớ kinh khiếp, đời đời ngươi sẽ không còn nữa .
Kinh Thánh cho chúng ta biết những gì chúng ta cần biết chứ không phải luôn luôn nói hết mọi điều. Chúng ta không được cho biết Luxiphe đã bắt đầu tham gia vào việc buôn bán như thế nào, hay là đã buôn bán với ai, nhưng hắn đã giữ một loại vai trò giám sát nào đó trên sự giàu có. Đoạn Kinh Thánh nầy gọi hắn là “Vua Tyrơ”
Hẳn nhiên, tiên tri Êxêchiên đã được ban cho một lời tiên tri với một sự liên hệ hai chiều, đó là một phần dành cho vị vua Tyrơ có thật, một nhân vật lãnh đạo quốc gia đứng đầu thương mại vào thời đó. Nhưng phần kia ám chỉ đến Luxiphe. Không một vị vua nào của nhân loại có thể được nhắc đến như là một người đã từng “ở Êđen” hoặc là một “Chêrubin được xức dầu” ở trên “Núi thánh của Đức Chúa Trời”. Những điều trưng dẫn trên trong Êxêchiên đoạn 28 rõ ràng thuộc về một nhân vật được biết đến như Satan.
Ngày nay chúng ta sẽ mô tả vai trò đó của Satan như thế nào? Chúng ta không gọi hắn là Vua Tyrơ được. Mà có thể gọi nó là Vua của thị trường tiền tệ Mỹ, tức là Vua của phố Wall. Bạn thấy đấy, Satan đang tìm cách kiểm soát thị trường buôn bán của cả thế giới. Nó cai trị con người bởi lòng tham muốn tiền bạc của họ. Qua việc trao đổi bất chánh, nó cố gắng khống chế không những lãnh vực kinh doanh mà cả những lãnh vực như khoa học, kỹ thuật, việc chăm sóc sức khỏe; quan điểm chính trị và việc thống lĩnh phương tiện truyền thông, nghệ thuật, giải trí và thể thao, giáo dục, thậm chí ở các giáo hội và gia đình.
Satan sử dụng các chiến thuật đó để buộc con người bị nô lệ về mặt tài chánh như lòng tham, tham vọng về quyền lực, sự kiêu ngạo, và sự sợ hãi, đặc biệt là sợ hãi những bất ổn về tài chánh.
Khi nhắc đến lòng tham, có lẽ chúng ta liên tưởng đến một người giàu có, keo kiệt. Một kẻ bủn xỉn như gã Scrooge bần tiện, ngồi trên đống tiền săm soi những đồng xu và tiền giấy của gã. Tuy nhiên, tham lam còn phổ biến hơn giữa vòng những người nghèo và người không giàu lắm. Những ai tiêu xài nhiều nhất với lòng tham dục vì cớ quyền lợi của chính mình là kẻ có ít nhất. Lòng tham đã đưa các bậc cha mẹ ở tại Ấn Độ tới chỗ đánh gãy chân con cái mình, dùng chúng làm những đứa trẻ ăn xin, moi thêm lòng thương hại do tình trạng què quặt. Tại Hoa Kỳ, những đứa bé sống trong thành phố đang giết các trẻ khác chỉ để chiếm lấy đôi giày thể thao đắt tiền.
Mặt khác, những người đã nắm quyền trên của cải lại bị cám dỗ nhiều hơn bởi lòng tham muốn được thống trị trên những người khác. Bởi lòng tham của những người nghèo, người giàu dùng sự giàu có của mình để điều khiển người nghèo. Mới đây tại Connecticut, một người chủ cửa hàng giày dép tuyên bố phá sản, ông nói điều đó đã xảy ra là vì một dấu hiệu mà ông đặt trong tủ kính của mình, để cho các tay buôn bán ma túy biết rằng ông không cần việc mua bán của họ trong cửa hàng của ông. Trước đó nhiều tháng, ông đã từng tiếp xúc với những người đại diện hãng sản xuất của một trong những mặt hàng hấp dẫn nhất thuộc giày thể thao. Họ cho biết họ đang khai trương nhiều cửa hàng giày trong thành phố của ông. Khi ông phản đối và bảo rằng không có nhiều nhu cầu trong khu vực này, những người đại diện đã nói với ông “Hãy kiếm thêm khách hàng. Tìm các tay buôn bán ma túy. Họ sẽ mua những đôi giày đắt tiền nhất của chúng ta”.
Song ông từ chối làm điều đó. Và ông đã vỡ nợ. Khi nhà báo phỏng vấn, hỏi rằng làm cách nào ông biết được ai là những tay buôn bán ma túy. Ông đáp: “Khi một thanh niên trạc 19 đến 22 tuổi trong một chiếc xe hơi bóng loáng kiểu thể thao đắt tiền đỗ lại, bước xuống, mang trên mình các sợi dây chuyền vàng trị giá hàng ngàn Mỹ kim và đi vào cửa hàng của bạn, chọn ngay đôi giày đắt nhất cửa hàng, chi ra hàng trăm Mỹ kim mà chẳng thèm bận tâm đến việc đợi bạn thối tiền, thì bạn phần nào hình dung được anh ta kiếm đâu ra nhiều tiền vậy.
Nhưng đằng sau lòng tham mê đó là những con người thế nào? và họ tìm kiếm những gì? Ban đầu bạn chỉ sở hữu thật nhiều giày dép, thật nhiều Tivi và đầu máy(VCRs), thật nhiều xe hơi và nhà cửa. Nhưng rồi sự sở hữu trở thành nỗi mê đắm trong chính trò chơi ấy, tức là sức mạnh trên những của cải mà tiền bạc có thể đem lại.
Lòng kiêu ngạo cũng là một phương thức nữa để Satan thống trị con người và tiền bạc của họ. Bạn có khi nào nghe những lời quảng cáo hứa hẹn về “niềm kiêu hãnh của người sở hữu”. Một hãng quảng cáo trên Tivi giới thiệu kiểu xe hơi sang trọng với giọng nói thật ngọt ngào của phát thanh viên rót vào tai, “Điều gì sẽ nuôi được tâm linh của bạn đây?” lời gọi mời lòng kiêu hãnh một cách sống sượng như vậy khiến chúng ta nhớ đến Satan, vua Tyrơ, kẻ đã đem lòng kiêu ngạo và bị hư nát khi hãnh diện về sự lộng lẫy của mình.
Vua Tyrơ cũng khống chế người ta qua nỗi lo sợ của họ về những bất ổn trong lãnh vực tài chánh. Người ta thường sợ không có đủ tiền, sợ mất tự chủ, quyền hành. Nếu sợ hãi ngăn trở chúng ta vâng lời Chúa trong bất cứ lãnh vực nào Ngài khuyên dạy, thì chúng ta thật yếu đuối trước sự sai khiến của Vua Tyrơ.
Ví dụ, một ông vua chuyên buôn bán bất chánh có thể xúi giục kẻ độc tài xâm lăng một xứ sở khác và giữ lại hai mươi lăm phần trăm nguồn cung cấp dầu của thế giới. Điều đó đánh vào nỗi sợ hãi trong thâm tâm của giới thương mại từ Tokyo đến Nữu ước hay Frankfurt. Giá dầu tăng vọt, mặc dầu nguồn cung cấp vẫn còn nhiều. Các nhà đầu tư bắt đầu mất lòng tin tưởng. Lãi suất trên các khoản vay mới tăng lên. Người ta thôi mua. Lượng tiền bị giảm sút hoặc thậm chí ngưng lại. Sự suy thoái hoặc trì trệ bắt đầu, tất cả sự sợ hãi đã làm tổn hại đến bầu không khí. Sự sợ hãi, chính nó có thể đẩy các nền kinh tế quốc gia vào chỗ rối rắm và hoảng sợ, dẫn đến việc hàng triệu người phải mất việc làm.
Vì vậy, Satan vẫn thường thống trị con người qua lãnh vực tiền bạc, nó lợi dụng lòng tham, tham vọng về quyền lực, kiêu hãnh và sự sợ hãi của con người.
Chúng ta phải làm gì đối với vấn đề này đây? Có phải chúng ta nên tránh xa những lãnh vực tài chánh của đời nầy và giữ tâm trí mình hướng vào những điều thuộc về trời nhiều hơn chăng? Chúng ta có nên bỏ việc mua bán của đời lại cho kẻ thù không? Dầu sao đi nữa, tôi cũng không tin đó là ý muốn của Đức Chúa Trời. Ý muốn của Ngài cũng không muốn chúng ta phải rời bỏ nhà trường, chức vụ trong chính phủ, hoặc những vị trí có ảnh hưởng trong ngành nghệ thuật, truyền thông, giải trí và thể thao. Đây chính là những lãnh vực chúng ta phải bước vào. Bằng sự cầu nguyện và bằng việc nhận lấy bất cứ một hành động phải lẽ nào mà Đức Thánh Linh dẫn dắt chúng ta nắm giữ, chúng ta hầu việc vì cớ Nước của Chúa Jesus và chính nghĩa của Ngài. Chúa Jesus đã đến để cứu chuộc thế gian này, mỗi một cá nhân, mỗi một tổ chức. Chúng ta không cần phải sợ vua Tyrơ, miễn là bao lâu chúng ta đừng để nó có ảnh hưởng hoặc lập mưu kế nào có thể sai khiến chúng ta. Chúa Jesus đã phán với satan rằng “Ngươi chẳng có chi hết nơi ta ” (GiGa 14:30)
Nền tài chánh của thế giới hoạt động trên lãnh vực mua và bán, mức cung và mức cầu. Nhu cầu đó thường đặt trên các nhu cầu không có thật, mà đặt trên lòng tham dục, trên sự kiêu ngạo và những nỗi lo sợ của con người. Song Nước Đức Chúa Trời thì khác hẳn và có một sức mạnh lớn hơn nhiều. Nước của Ngài vận hành trên việc ban cho và nhận lãnh. Người nào lắng nghe Thánh Linh, vâng theo Chúa và ban phát rộng rãi là đang làm giảm đi sức mạnh của vua Tyrơ.
Loại ban cho đó làm rúng động sự kiểm soát của Satan trên thế gian nầy. Chúng ta phá vỡ những song sắt của lòng tham bằng sự ban cho rộng lượng được Thánh Linh dẫn dắt. Chúng ta đáp lại tinh thần áp đặt và khống chế bằng cách giữ tấm lòng của người tôi tớ. Chúng ta đối đầu với kiêu ngạo bằng sự hạ mình và một nhân cách dịu dàng; đối đầu với sự sợ hãi bằng tình yêu thương trọn vẹn của Đức Chúa Trời, giống như ánh sáng xua đuổi tối tăm đi.
Khi Giăng Báptít rao giảng về sự sẽ đến của Đấng Mêsi, ông bảo các thính giả của mình hãy ăn năn, ông nói rằng cái búa đã để kề gốc cây… hễ cây nào không ích lợi sẽ bị chặt đi. Khi họ đáp ứng và hỏi rằng họ phải làm gì để ăn năn, Giăng đã liên hệ việc ban cho rộng rãi với việc cái búa để kề gốc cây mà ông mới rao giảng (LuLc 3:1-38). Ông nói, “Ai có hai áo, hãy lấy một cái cho người không có, và ai có đồ ăn cũng nên làm như vậy”. Với những người thâu thuế ông nói “Đừng đòi chi ngoài số luật định”, và với những người lính, ông nói “đừng tống tiền ai nhưng hãy bằng lòng với lương hướng của mình”. Hầu hết những hành động cụ thể của sự ăn năn đều tập trung quanh vấn đề tiền bạc.
Vì vậy sự ban phát rộng rãi được nối kết với sự ăn năn và với việc chặt đốn những gốc rễ của các cây gian ác. Chúng ta vẫn thường thấy điều đó theo một đường lối thực tiễn. Lần đầu tiên khi chúng tôi bước vào các cuộc thương lượng về mảnh đất dành cho trường Kona thuộc Hawaii của chúng tôi, là trường đại học của các dân tộc, chúng tôi được Chúa dẫn dắt để đối đầu với lòng tham lam bằng sự rộng rãi. Câu chuyện đó được kể chi tiết trong cuốn sách của tôi, quyển “Winning, God’s Way” (“Đắc Thắng, Phương Cách Của Đức Chúa Trời”)
Hội Nữ Truyền Giáo Mary (The Evangelical Sisterhood of Mary) cũng đã từng có một kinh nghiệm tương tự. Mẹ Basilea Schlink là người sáng lập chức vụ này, là chức vụ được bắt đầu tại Đức trong những ngày đen tối sau thế chiến II. Các chị em thuộc trường Mary vẫn duy trì các cộng đồng tôn giáo chú trọng đến một đời sống thờ phượng Chúa, tin cậy Ngài lo liệu những nhu cầu hằng ngày của họ. Với một nhóm các Tu sĩ Tin lành, phần lớn còn non trẻ, họ đã mua được bất động sản đầu tiên cho mình tại Darmstadt. Những người nữ này đã học biết cách tự xây lấy khu nhà của họ. Họ tin cậy Chúa về khoản thu nhập để xây dựng dần dần: trước hết là một nhà nguyện, rồi sau đó đến các khu nhà khác để làm trung tâm dưỡng linh giúp các vị khách từ mọi giáo phái có thể đến tìm kiếm Chúa.
Tuy nhiên, có một miếng đất nhỏ có hình dạng kỳ dị nằm kế bên khu đất của họ. Các chị em nữ tu bắt đầu tin chắc rằng bằng sự cầu nguyện, người ta phải bán miếng đất ấy để làm một nơi Hội Thảo về Chúa Jesus. Họ đã mua được tất cả những mảnh đất cần thiết khác nhưng chỉ trừ có miếng đất này.
Mảnh đất đó thuộc về một phụ nữ cao tuổi, bà ta từ chối bán hoặc đổi nó cho bất cứ miếng đất nào khác. Bà ta nhất mực cho rằng dầu hoàn cảnh nào con người cũng không được bỏ những gì cha mẹ để lại.
Lần nọ, Sơ Eulalia đi đến nhà của người phụ nữ cao tuổi này, hy vọng thuyết phục được bà ta. Bà cụ không có nhà, nhưng có người cháu của bà. Anh ta đưa vị nữ tu vào gian phòng của bà dì mình. Chỉ cần nhìn qua là Sơ biết rằng bao lâu bà cụ còn sống bà sẽ không bao giờ chịu bỏ đi bất cứ một thứ gì mình sở hữu. Căn phòng đầy chật đồ đạc, nhiều hơn số đồ đạc mà bất cứ một con người nào có thể dùng, hoặc thậm chí có thể giữ được. Đồ đạc đủ để trang hoàng cho cả tòa nhà lớn đều nằm trong gian phòng đó. Hầu hết đều đã ọp ẹp. Sau đó người cháu cho vị nữ tu xem chiếc thang mà bà dì của cậu thường dùng để leo vào giường, chiếc giường của bà là một chồng nệm được thừa hưởng từ các vị tổ tiên, cái này chồng trên cái kia. Rõ ràng bà cụ này không hề bỏ đi một thứ đồ đạc nào trong số bà đã thừa kế.
Khi Sơ Eulalia thuật lại điều đã thấy, các Sơ trong trường Mary quyết định rằng bất cứ người nào quá bị ràng buộc vào những thứ thuộc về thế giới này, cách duy nhất để giải phóng người ấy là sự cầu nguyện sốt sắng, sự cảm thông sâu sắc và không ngưng nghỉ. Lý do của trận chiến này không phải là mảnh đất để xây dựng một căn nhà thờ phượng. Nhưng là một linh hồn bị cột trói. Họ quyết định kiêng ăn, nhớ lời Chúa Jêsus phán, “Những thứ quỷ này nếu không cầu nguyện và không kiêng ăn thì chẳng trừ nó được” (Mat Mt 17:21). Để thêm vào việc kiêng các thức ăn, họ còn kiêng ăn theo một cách khác, là từ bỏ một số điều có liên hệ mật thiết với tình trạng nô lệ của bà cụ.
Các chị em trong dòng tu Mary đều sẵn sàng sống rất giản dị. Họ không có nhiều tiền, và không có bất cứ những tài sản riêng nào. Nhưng mỗi chị em đều tìm kiếm Chúa, cầu xin Ngài tỏ cho mình nếu như có bất cứ một tinh thần chất chứa nào như vậy trong chính mình, tức là có sự yêu mến gắn bó nào lớn hơn là sự gắn bó với Chúa Jesus chăng.
Sự yêu mến của người này có thể là một chiếc thập tự nhỏ bằng gỗ, với người kia là một tấm bưu thiếp có hình ảnh đẹp… trị giá tiền bạc của nó không phải là điều quan trọng, nhưng quan trọng là thái độ phụ thuộc của chúng ta đối với vật ấy. Sau “tuần lễ đầu phục”, một phái viên trong vòng các chị em đến viếng thăm bà cụ hàng xóm một lần nữa.
Người chị em không thể tin ở tai mình khi bà cụ bảo “Tôi không tiếc miếng đất lắm, nhưng tôi tiếc mấy cây mận. Tôi thật không muốn phải mất mấy cây mận đó!”. Bà cụ nói bà sẵn sàng bán miếng đất lẻ loi nầy cho họ, nhưng rồi bà lại nhớ tiếc mấy cây mận trên mảnh đất ấy. Đức Chúa Trời đã làm một phép lạ.
Họ bèn thảo một cam kết cho việc bán đất, quy định rằng mọi vật ở trên các cây mận đều thuộc về bà cụ. Và rồi sau đó, hàng năm họ đều gởi tất cả số mận đến cho bà cho đến khi bà qua đời.
Satan đang kiểm soát của cải mà đúng ra chúng thuộc về Đức Chúa Trời. Cuộc chiến mạnh mẽ nhất của chúng ta nhằm chống lại hắn sẽ xảy đến khi chúng ta đầu phục Chúa và vâng lời, chứ không phải của lễ mà Đức Chúa Trời muốn (ISa1Sm 15:22). Sự vâng lời của chúng ta thường sẽ mang ý nghĩa như một của dâng. Của lễ không phải là sự đánh bại kẻ thù, mà chính là sự vâng lời Đức Chúa Trời. Chỉ dốc hết các túi tiền của mình thì chưa phải là khôn ngoan. Tôi đọc được câu chuyện về một bà góa nghèo, bà ta thật căm phẫn khi phát hiện được sự tiêu xài vung vãi của một người hầu việc Chúa, là người bà đã dâng cho. Bà ta nói “Thử nghĩ mà xem, tôi đã chẳng ăn gì ngoài bắp nổ suốt một tuần lễ để dâng số tiền mua thức ăn của mình cho vị mục sư đó!”
Thậm chí nếu như bạn chỉ dâng cho những người hầu việc Chúa đáng tin cậy, để biết chắc rằng họ không phí phạm của dâng của bạn, thì bạn cũng không thể dâng cho mọi người được. Đức Chúa Trời không bảo mọi người phải ban cho mọi điều mình có hoặc phải cố gắng mà đáp ứng mọi nhu cầu. Điều Ngài muốn chính là sự vâng lời đối với sự nhắc nhở, thúc đẩy của Ngài. Và nếu như có đôi khi Ngài bảo bạn cho đi tất cả mọi sự thì Ngài sẽ chu cấp các nhu cầu của bạn một cách lạ lùng.
Sự vâng lời trong việc dâng hiến là một hành động của cuộc xung trận thuộc linh. Lấy một ví dụ, nếu như một người ở Chicago hưởng ứng một cách rộng rãi, dâng hết tiền bạc của mình… giả sử như vậy, để giúp cho dự án truyền giáo trên nửa vòng trái đất…thì các sức mạnh của Satan đang bị đẩy lùi ở tại Chicago. Số lượng tiền không quan trọng, song thái độ dâng hiến mới là quan trọng. Bất cứ số lượng nào, thậm chí sự đóng góp thật khiêm tốn của người đàn bà góa, được dâng hiến một cách vô kỷ trong thái độ vâng lời cũng đánh tan được các thế lực của sự tối tăm nhằm ngay vào chính Luxiphe. Việc dâng hiến cách không vị kỷ có nghĩa là của dâng đó sẽ không giúp ích gì cho kẻ dâng bằng bất cứ cách nào. Không phải dâng để cho người đó có được một chỗ ngồi dễ chịu hơn, hay là có mối quan hệ lân cận an toàn hơn. Nó được dâng đi, và chỉ Đức Chúa Trời là Đấng có thể báo trả lại ơn phước cho người đó. Loại dâng hiến đó làm rúng động Satan, làm lỏng lẻo quyền kiểm soát của Satan trong khu vực nhận được của dâng, và thậm chí còn làm lỏng lẻo quyền kiểm soát của nó trong khu vực của người dâng hiến nữa.
Đó là lý do vì sao các Cơ Đốc nhân tại Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ Latinh cần được dạy phải dâng hiến cho các hội truyền giáo và những người nghèo thiếu trong các quốc gia khác. Nếu chúng ta không dạy cho các quốc gia đang phát triển về sức mạnh của sự ban cho, thì những người nghèo sẽ cứ bị giữ trong tình trạng nghèo thiếu.
Đó là điều đã làm cho lễ Giáng sinh trở nên quá đặc biệt, thậm chí đối với những người không hiểu gì về Đức Chúa Trời lẫn Con Một của Ngài là Đấng mà chúng ta mừng kỷ niệm sinh nhật của Ngài. Giáng sinh, bất chấp tính thương mại và các hình thức bề ngoài của nó, vẫn là một mùa tặng quà và ban cho rộng rãi. Và một số điều đã xảy ra nhờ tất cả những sự ban cho rộng rãi ấy đó là hàng năm nền kinh tế được chúc phước ít nhất là năm tháng sau đó.
Sự dâng hiến có tính cách hy sinh, tức là đạt đến chỗ bạn tin cậy Chúa đáp ứng các nhu cầu của mình, cũng xua đuổi được Satan trong lãnh vực sợ hãi. Đức tin của bạn đặt nơi Đức Chúa Trời khi bạn lắng nghe tiếng phán của Ngài, làm điều Ngài bảo bạn và sau đó chờ đợi với lòng tin cậy đơn sơ để Ngài cung ứng cho bạn, thẳng thắn đối đầu với sự sai khiến của vua Tyrơ qua về vấn đề sợ hãi. Đối diện với nỗi sợ bất ổn về mặt tài chánh và đặt lòng tin cậy trực tiếp vào Chúa. Bạn sẽ học được qua kinh nghiệm Ngài là Đấng thành tín biết bao.
Tôi đã từng trãi một trường hợp lạ lùng, học tập để từ bỏ khả năng chi tiêu trong một lãnh vực đặc biệt suốt trong ba năm. Đức Chúa Trời đã trực tiếp đáp ứng các nhu cầu của tôi. Trong trường hợp nầy, nhu cầu của tôi là y phục. Chúa Jesus hứa rằng: Cha trên trời của chúng ta, là Đấng mặc cho hoa huệ ngoài đồng, chắc chắn sẽ ban cho chúng ta áo đẹp và phù hợp.
Trong suốt những năm đầu của chức vụ chúng tôi, có một phụ nữ đến gặp tôi sau bài giảng của tôi ở tại hội thánh của bà, và ngỏ ý muốn được mua cho tôi một bộ đồ. Tôi tưởng rằng bà sẽ viết một ngân phiếu hoặc gặp tôi và Darlene tại một quầy hàng, nơi tôi có thể chọn bộ đồ. Nhưng hóa ra bà ta là một thợ may trong bộ phận cắt may đồ nam thuộc Cửa Hàng Bách Hóa Thời Trang. Sau khi đã lấy các số đo của tôi, bà ta chờ đợt hàng hạ giá, và mua bộ đồ với giá được giảm dành cho bà, sửa lại cho vừa, rồi gởi đến nhà tôi.
Thật là một sự chu cấp tuyệt diệu, vì là một diễn giả, thỉnh thoảng tôi cũng cần có một bộ lễ phục phù hợp. Ba năm tiếp theo đó, bà ta đã gởi đến cho tôi ba hoặc bốn bộ lễ phục như vậy. Nhưng mặc dầu điều đó đã đáp ứng một nhu cầu thật rõ ràng và chúng luôn luôn là những bộ đồ đường hoàng, thích hợp cho buổi thờ phượng, tôi đã khám phá được đó cũng là một thử nghiệm “may đo” từ Đức Chúa Trời đối với lòng tự cao của tôi. Tôi không bao giờ phải chọn lựa các bộ đồ. Đó là một bài học nhỏ, nhưng thật riêng tư giữa tôi và Chúa. Ngài đang tỏ cho tôi thấy hãy giao phó quyền hạn nhỏ nhặt đó, lãnh vực chọn lựa đó cho Ngài. Ngài đã chu cấp đầy đủ nhu cầu của tôi và dạy tôi hiểu rằng sự thành tín của Ngài nhằm đáp ứng các nhu cầu của tôi. Điều đó chỉ kéo dài trong một thời gian ba năm. Nhưng tôi học biết rằng khi tôi đầu phục các quyền hạn của mình thì Đức Chúa Trời sẽ lo liệu các nhu cầu cơ bản nhất.
Điều mà vua Tyrơ sợ nhất là những con người đầu phục các quyền hạn của mình và đặt lòng tin cậy nơi Đức Chúa Trời. Satan chẳng có gì để nắm quyền trên chúng ta nếu chúng ta đã ăn năn về sự tham lam của mình, nếu chúng ta liên tục đáp ứng trong sự dâng hiến rời rộng và ban cho cách nhưng không, không phải vì những sợi dây trói buộc nào. Hắn có thể làm được gì nếu chúng ta đã từ bỏ lòng kiêu ngạo, đã bằng lòng hạ mình và lao mình vào trong sự chăm sóc của Đức Chúa Trời mà không hề sợ sệt? Satan có thể làm được gì? Hắn có thể chi phối trên chúng ta bởi sức mạnh gì? Tài chánh của chúng ta? Những quyết định nghiệp vụ của chúng ta? hay là sự nghiệp kinh doanh của chúng ta? Sẽ không còn gì dành cho quyền lực của hắn. Như được dự đoán trong Êxêchiên 28, hắn sẽ bị trở thành tro bụi trên đất trước mắt mọi người. Bạn dường như nghe được tiếng cười hoài nghi của những người trong EsIs 14:16 là phần nói tiên tri một ngày trong tương lai khi mọi người nhìn thấy Satan bởi điều mà hắn thật sự có “Có phải người này là kẻ đã làm rung rinh đất, day động các nước…?” Chúng ta không cần phải chờ đến ngày đó để thấy Satan thật sự là con người thế nào. Chúng ta có thể làm điều đó ngay bây giờ bằng cách nhìn xem Đức Chúa Trời để nhận biết Ngài là ai và ghi nhớ lời Ngài, bằng cách vâng theo sự dẫn dắt của Ngài, chúng ta có thể tước đoạt ảnh hưởng của vua Tyrơ trên những cá nhân, những cộng đồng, những hiệp hội và những quốc gia.

Ghi chú : chương 5
1. Chủ yếu lấy từ một cuộc phỏng vấn vào tháng 6 năm 1988 với Betty Hall thuộc Alta, tiểu bang California, một người trong số khoảng 1.200 con cháu của người Da đỏ Shasta.
2. Winning, God’s Way (“Sự Chiến Thắng, Đường Lối của Đức Chúa Trời”) là một tác phẩm của Loren Cunningham, nhà xuất bản YWAM (Thanh Niên Sứ Mạng) năm 1988, trang 103.

LÀM THẾ NÀO GIỮ MÌNH KHỎI SỰ THẤT BẠI

Trung tâm Cleveland, máy bay Alpha Charley 346 gọi đây. Tôi đang ở độ cao mười ngàn năm trăm bộ. Tôi đang ở giữa mây…Thiết bị chỉ dẫn định hướng không hoạt động. Cần rađa định hướng. Hết”
– “Alpha Charley Sáu, Cleveland đây. Roger. Đã biết anh không định được hướng. Hãy đặt máy liên lạc ở mã số 4582 để nhận tín hiệu của rađa. Hướng tiến của anh hiện bao nhiêu?
“Alpha Charley Sáu đang ở hướng tiến 250 độ. Xin lập lại mã số. Tôi đang nguy…Tôi đang mất định hướng…Tôi không thấy được mặt đất!
– Alpha Charley Sáu, Cleveland đây. Hãy gọi mã số 4582. Tập trung vào mạng chỉ thị thiết bị của bạn. Giữ nguyên mức độ canh và giảm ga để bắt đầu hạ xuống từ từ. Chúng tôi đã tiếp cận được với anh trên hệ thống rađa.
“Tôi mất kiểm soát rồi,..mất..Máy bay đang đảo…Tôi sắp lộn nhào. Tôi đang lộn nhào!…hướng nào đây! Cứu! Cứu tôi với!”
– “Alpha Charley sáu, thả lỏng bộ phận điều chỉnh đi! hãy nhìn vào mặt thiết bị chỉ dẫn của anh. Điều khiển bánh lái ngược lại! Bẻ ngược bánh lái lại!
“Cứu, Cứu tôi với ! Tôi không thể dừng được…”
– “Alpha Charley Sáu, Alpha Charley Sáu, anh có nghe thấy không?”
(Yên lặng)
-“Liên lạc bằng rađa đã bị mất”
Mẫu đối thoại trên dựa vào một cuộc trao đổi được ghi lại giữa đài kiểm soát không lưu với một máy bay nhỏ đã bị rơi, làm chết viên phi công. Việc điều tra vụ rơi máy bay nầy cho thấy không có gì trục trặc với các thiết bị bay trên chiếc máy bay N346 Alpha Charley1. Phi công này chưa được huấn luyện để bay mà không bị ảnh hưởng bởi những cảnh vật thấy được bên ngoài, nên đã mất phương hướng và không điều khiển được máy bay của mình. Bảng thiết bị của anh ta bao gồm tất cả các thông tin cần thiết để hoàn tất chuyến bay một cách an toàn. Vậy thì còn thiếu điều gì? Sự huấn luyện và kỷ luật giúp anh bỏ qua tiếng nói của bản năng mà chỉ tập trung bay bằng sự liên hệ với một nguồn thông tin từ bên ngoài: đó chính là các thiết bị của anh ta. Điều gì đã xảy ra? Sự thực mà anh cho là đúng đã hóa ra sai. Những cảm nhận của anh đã phản bội anh, và anh phải trả giá bằng mạng sống của mình.
Để học biết cách sống bằng đức tin trong lãnh vực tài chánh, chúng ta phải nhờ cậy vào một nguồn thông tin bên ngoài, chứ không chỉ dựa vào nhận định riêng của mình về các hoàn cảnh. Điều đó cũng giống như điều khiển một chiếc máy bay bằng thiết bị chỉ dẫn. Quang cảnh phía trước nhiều khi âm u và mù mịt, nhưng chúng ta cứ làm đúng chỉ dẫn và theo đúng hướng thông tin. Nguồn thông tin bên ngoài đó chính là Lời Chúa.
Lời thành văn của Chúa ban cho chúng ta rất nhiều nguyên tắc hướng dẫn các lãnh vực về tài chánh của chúng ta. Tôi muốn được nhắm vào những nguyên tắc cơ bản nhất. Những lẽ thật này đều là những nền tảng, dầu cho bạn đang có một công việc thuộc giới, làm việc từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều hoặc bạn đang lao mình vào các chức vụ hầu việc tiên phong.
Nguyên Tắc Thứ I: Đừng Lo Lắng Về Tiền Bạc
Một trong các mạng lệnh đầu tiên của Kinh Thánh là chớ lo lắng. Mạng lệnh đó cũng dứt khoát như mạng lệnh chớ trộm cắp hoặc chớ phạm tội tà dâm. Các chữ “đừng sợ” hoặc những câu tương tự xuất hiện khoảng 100 lần trong Kinh Thánh.
Chúa Jesus đặc biệt bảo chúng ta đừng lo lắng về tiền bạc trong Bài Giảng Trên Núi của Ngài. Những gì chúng ta được dạy bảo và những gì chúng ta không được dạy về lời nói và việc làm của Chúa Jêsus đều được truyền dạy cách thiêng liêng. Vì vậy, thật có ý nghĩa khi Bài Giảng Trên Núi dành thật nhiều chỗ về mạng lệnh này. Bạn hãy suy nghĩ đến tất cả những điều ác của thế gian mà Chúa Jesus đã cảnh cáo chúng ta. Lẽ ra Ngài có thể kêu gọi chúng ta lưu ý đến những lỗi lầm thông thường và những thất bại phổ biến của con người, hoặc con số của những nỗi đau trên thế giới này. Nhưng Ngài lại tập trung vào nỗi bận tâm và lo lắng của chúng ta về tiền bạc.
Có lẽ bạn hiện đang đối diện với một cuộc khủng hoảng tài chánh. Hãy lắng nghe những lời Chúa Jesus phán mà trước đây bạn chưa hề nghe.
“Vậy nên ta phán cùng các ngươi rằng: Đừng vì sự sống mình mà lo đồ ăn uống, cũng đừng vì thân thể mình mà lo đồ mặc . Sự sống há chẳng quý trọng hơn đồ ăn sao? Thân thể há chẳng quý trọng hơn quần áo sao? Hãy xem loài chim trời, chẳng có gieo gặt, cũng chẳng có thâu trữ vào kho tàng, mà Cha các ngươi trên trời nuôi nó . Các ngươi há chẳng phải là quý trọng hơn loài chim sao? Vả lại có ai trong vòng các ngươi lo lắng mà làm cho đời mình dài hơn một khắc không? Còn về phần quần áo, các ngươi lại lo lắng mà làm chi? Hãy ngắm xem những loài hoa huệ ngoài đồng mọc lên thể nào, chẳng làm khó nhọc, cũng không kéo chỉ, nhưng ta phán cùng các ngươi, dẫu Vua Salômôn sang trọng đến đâu cũng không được mặc áo tốt như một loài hoa nào trong giống đó . Hỡi kẻ ít đức tin,loài cỏ ngoài đồng là giống nay còn sống, mai bỏ vào lò mà Đức Chúa Trời còn cho nó mặc đẹp thể ấy thay, huống chi là các ngươi . Ấy vậy các ngươi chớ lo lắng mà nói rằng: Chúng ta sẽ ăn gì? uống gì? mặc gì? Vì mọi điều đó các dân ngoại vẫn thường tìm, và Cha các ngươi ở trên trời vốn biết các ngươi cần dùng những điều đó rồi .
Nhưng trước hết hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài,thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa . Vậy, chớ lo lắng chi về ngày mai, vì ngày mai sẽ lo về việc ngày mai . Sự khó nhọc ngày nào đủ cho ngày ấy “. (Mat Mt 6:25-34)
Không còn gì rõ ràng hơn nữa, có một người đã tóm gọn khúc Kinh Thánh trên như vầy “Lo lắng là niềm tin đặt nơi ma quỷ”. Bạn hãy đọc Thi Tv 37:1-40 sứ điệp chủ chốt của đoạn Kinh Thánh đó là chớ lo lắng về tiền bạc. Trong đoạn nầy ba lần lập lại câu “Chớ phiền lòng!” Trong câu 8 cũng nói sự lo phiền đó chỉ dẫn đến điều ác.
Dầu cho các mối lo của bạn về mặt tài chánh là hậu quả của một điều gì đó ở ngoài tầm kiểm soát của bạn, như tình trạng kinh tế hoặc tình trạng giảm lao động, hay do hậu quả của điều bạn đã làm, như quá lạm dụng thẻ tín dụng, thì mạng lệnh Kinh Thánh vẫn không thay đổi. Chớ lo lắng chi về tiền bạc. Đức Chúa Trời sẽ chỉ cho bạn những bước nào cần phải thực hành để vượt qua mớ rối nùi của bạn về lãnh vực tài chánh. Có thể bạn cũng cần tìm những lời khuyên trong lãnh vực này và thực hiện các bước ăn năn và bồi hoàn nếu như nan đề tài chánh của bạn bắt nguồn từ việc lạm dụng tiền bạc hoặc do thiếu khôn ngoan. Song bạn không được lo lắng. Lo lắng chỉ dẫn đến những thái độ sai quấy và hành động sai trật.
Việc chọn lựa để không lo lắng nữa đòi hỏi nhiều đến sức mạnh của ý chí giống như viên phi công phải nhờ vào bảng thiết bị hướng dẫn thay vì dựa vào những cảm nhận của chính anh ta trong lúc bay qua đám mây mù. Có một phụ nữ quyết định không lo lắng về tiền bạc nữa. Tên cô là Lillian Trasher.
Cô Lillian Trasher đến Ai cập vào những năm đầu thập kỷ 1900, hoàn toàn chỉ vì Lời của Chúa, không có một sự chấp thuận chính thức hoặc sự hậu thuẫn về mặt tài chánh của một ban chấp hành của hội truyền giáo nào cả. Tại đó, tấm lòng của thiếu nữ độc thân trẻ tuổi nầy bị quặn thắt bởi nhu cầu của hàng ngàn trẻ mồ côi bị bỏ rơi. Cô không có phương cách nào để cứu giúp chúng, vì chính cô cũng không có một nguồn thu nhập bảo đảm nào, lại càng không thể lo cho những đứa trẻ ăn theo được. Song cô tin chắc rằng Đức Chúa Trời đang bảo cô làm một điều gì đó.
Năm 1911, cô bắt đầu nhận nuôi các đứa trẻ và không bao lâu sau cô chịu trách nhiệm với 1500 đến 2000 trẻ em và bà góa. Trong suốt 51 năm, kể cả những năm khó khăn trong thế chiến thứ II, cô đã lệ thuộc vào Đức Chúa Trời và vào sự dâng hiến của đồng bào cô, để có thức ăn cho trẻ mồ côi hoặc thêm nhà ở cho chúng. Tin tức về việc làm của cô đã lan đi và nhiều người gởi tiền đến giúp cô. Nhưng nguyên tắc sống căn bản của cô vẫn là một lối sống lệ thuộc vào Chúa hàng ngày và quyết định không lo lắng. Cô viết trong một cuốn sách nói về một kinh nghiệm rất điển hình. 2
“Ngày nọ tôi đến thăm một trong những người bạn Aicập bị bệnh. Tôi dành cả ba ngày ở với cô ta, và cô ta hỏi tôi có bao nhiêu trẻ em (ở tại viện mồ côi) tôi trả lời và cô hỏi tôi có bao nhiêu tiền. Tôi nói chưa đến 5 Mỹ kim và tôi có mượn 250 Mỹ kim nơi một người bạn.
Cô bạn của Lillian hoảng sợ. Biết rằng viện cô nhi dự định cất một khu nhà mới, cô ta hỏi “Dĩ nhiên là bạn không khởi công cho đến khi nào có thêm tài chánh trong tay chứ?” Lillian đáp: “Ô chúng tôi không đợi có tiền, nếu chỉ có năm mươi xu thôi, chúng tôi cũng khởi sự. Khi nào tòa nhà hoàn tất, thì tiền cũng được trả đủ”.
Lillian tìm cách làm cho cô bạn mình yên tâm, nói cho cô biết rằng từ trước đến nay công việc vẫn tiến hành như vậy. Cô kể cho bạn mình về một khu ký túc xá hai tầng mới vừa xây xong dành cho các em gái mà họ không phải mắc nợ một xu nào. Sau một số câu chuyện như thế, người phụ nữ ấy trả lời: “Được rồi, Lillian à, nếu như tôi không biết điều đó là thật thì tôi đã bảo đó là những chuyện hoàn toàn dối trá!”
Lillian viết rằng “Chiều hôm đó tôi ra về, chồng cô ta đã trao cho tôi 25 Mỹ kim. Sáng hôm sau 55 Mỹ kim đến từ Hoa kỳ. Tôi trả bớt một phần trong số 250 Mỹ kim mà tôi đã nợ.
“Chiều ngày hôm sau tôi đi đến gian nhà dành cho trẻ nhỏ. Khi xem xét giường của các bé, tôi thấy rất cần có các tấm trải bằng nylon. Các tấm cũ của chúng đã sờn cả rồi. Tôi nói với một trong các giáo viên “Ôi, phải chi tôi có 10 Mỹ kim ngay bây giờ”. Khi đang còn trò chuyện, một bé gái chạy tới và nói “Thưa Mẹ, bà D. muốn nói chuyện với Mẹ qua điện thoại”. Bà D. là một góa phụ Aicập rất giàu có.
“Bà ta cho biết muốn đến thăm cô nhi viện, và chỉ một lát sau có hai chiếc xe hơi chạy vào. Một xe chở đầy cam cho các em, và bà ta phát cho mỗi em một trái khi chúng xếp hàng đi qua. Khi các em đã đi hết, bà ta trao cho tôi 150 Mỹ kim.
Cô Lillian đi ngay đến cửa hàng và mua các tấm trải bằng nylon mới cho giường ngủ của các bé, sau đó cô dùng số tiền còn lại để trả cho khoản nợ 250 Mỹ kim. Qua ngày hôm sau, 500 Mỹ kim đến từ một ân nhân ở tại Hoa kỳ một sự đóng góp thật quý báu cho dự án xây cất được tiếp tục. Cô gọi điện cho cô bạn lo lắng và thuật lại những gì Đức Chúa Trời đã làm trong một vài ngày qua.
“Ôi, cảm tạ Chúa”, người phụ nữ đáp lời “Tôi thật không chợp mắt được buổi tối hôm ấy, cứ lo lắng cho chị và hết thảy những đứa trẻ ấy!”
Người thiếu phụ Aicập thì mất ngủ, nhưng Lillian thì không. Cô đã quyết định không lo lắng vì biết chắc rằng Đức Chúa Trời sẽ chu cấp.
Nguyên Tắc Thứ 2: Đặt Đúng Các Ưu Tiên
Chúng ta phải trước hết tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài. Điều nào giữ vị trí cao nhất trong tâm trí chúng ta thì điều đó sẽ làm hao tổn nhiều sức lực và thì giờ của chúng ta hơn hết. Điều đó sẽ là nền tảng của các quyết định của chúng ta và cũng sẽ là điều kích động chúng ta hơn hết. Nếu chúng ta thành thật, chúng ta sẽ thừa nhận rằng tiền bạc nhiều lúc giữ vị trí ưu tiên số một trong đời sống chúng ta, chứ không phải Đức Chúa Trời và Nước Ngài. Nếu Chúa đang nằm đúng vị trí của Ngài trong tấm lòng của chúng ta, chúng ta sẽ không bị gây ấn tượng quá mạnh mẽ đối với tiền bạc. Khi có tiền hay khi không có tiền, mắt chúng ta vẫn cứ chăm xem Chúa chứ không nhìn vào sổ chi thu của mình. Thông thường mức độ lo lắng chúng ta bày tỏ qua tiền bạc cho thấy chúng ta đã đặt các giá trị ưu tiên của mình ở đâu.
Nguyên Tắc Thứ 3: Hãy Chuyên Tâm và Có Tinh Thần Trách Nhiệm
Phải tìm kiếm Nước Đức Chúa Trời trước hết, tuy nhiên như vậy không có nghĩa là chúng ta phải vô trách nhiệm về mặt tài chánh. Chúa dạy chúng ta phải biết chắc và biết rõ cảnh trạng của bầy chiên mình (ChCn 12:24) Mỗi người đều phải làm lụng và lo chăm sóc các nhu cầu riêng của chính mình (ITe1Tx 4:11-12; IITe 2Tx 3:10)
Hãy nhớ điều răn thứ tư trong Mười Điều Răn: Chúng ta thường chỉ chú trọng vào một khía cạnh của điều răn nầy, đó là giữ ngày Sabát. Nhưng cũng không được quên một nửa phần còn lại của mạng lệnh này: Ngươi hãy làm việc trong sáu ngày.
Một số người cho rằng làm lụng là một sự rủa sả và rằng chúng ta sẽ sung sướng hơn nếu như không phải làm việc. Tôi không tin điều đó. Khi Đức Chúa Trời bảo Ađam rằng ông phải làm việc để trồng ra lúa gạo mà có bánh ăn, thì đó không hoàn toàn là một lời rủa sả. Lòng khao khát muốn được hữu dụng đã trồng sâu trong mỗi người chúng ta, vì thế vô dụng mới thật là một sự rủa sả. Đó là lý do vì sao có quá nhiều những người lớn tuổi mạnh khỏe bị buộc phải nghỉ hưu và về sau chết rất chóng. Chúng ta cần quay về với những lẽ thật về việc thiện của phái Thanh Giáo. Chúng ta cần phải làm việc và làm việc cần mẫn. Sau đó, Đức Chúa Trời sẽ chúc phước cho công việc của tay chúng ta.
Kinh Thánh cũng dạy chúng ta phải có trách nhiệm với gia đình của mình. Chúng ta được dạy phải chăm sóc gia đình hiện tại của mình và các bậc cha mẹ lớn tuổi của chúng ta (ITi1Tm 5:4). Cách mỗi người chăm lo đến các trách nhiệm về mặt tài chánh đều khác nhau, bởi vì Đức Chúa Trời kêu gọi mỗi người cách riêng biệt và trang bị mỗi người độc đáo riêng theo sự kêu gọi của người ấy. Nhưng chúng ta đừng trốn tránh trách nhiệm của mình.
Nguyên Tắc Thứ 4: Đầu Tư Tiền Bạc Và Nhìn Xem Nó Phát Triển
Chúa Jesus đã cho chúng ta câu chuyện ngụ ngôn về các ta lâng. Thí dụ đó giải tỏ rõ ràng rằng chúng ta có bổn phận làm hết sức điều mình có thể làm để thực hiện những cuộc đầu tư khôn ngoan. Tiền bạc của chúng ta phải được sử dụng và nẩy nở ra, đem lại phước hạnh cho nhiều người, chứ không được cất giấu đi. Tuy nhiên, phải cẩn thận một điều: Việc này không nhất thiết nhằm vào sự phát triển giàu có tiền bạc. Tài chánh có thể được kể vào, nhưng có những vấn đề khác quan trọng hơn. Tâm tánh của chúng ta có tăng trưởng không? Nước của Đấng Christ trên đất có được phát triển không? Tăng trưởng là một nguyên tắc của sự sống. Phải, một công ty hoặc một cuộc đầu tư cũng có thể bày tỏ ra ân điển của sự sống và sự nhân bội của Đấng Christ.
Nguyên Tắc Thứ 5: Hãy Rộng Rãi
Mỗi một Cơ Đốc nhân đều phải rộng rãi. Đó là một phần của những thay đổi đã diễn ra trong bản chất của chúng ta khi chúng ta trở nên những tạo vật mới trong Đấng Christ. Khi được biến cải, chúng ta trở nên giống như Cha chúng ta ở trên trời, là Đấng rời rộng hơn tất cả mọi người.
Lý do đầu tiên chúng ta phải rộng rãi là để bày tỏ với Chúa lòng biết ơn và tình yêu chúng ta dành cho Ngài. Chúng ta không thể gởi các ngân phiếu đến thiên đàng, đề tên Chúa Jesus. Kể từ khi Ngài được cất lên trời, cách duy nhất chúng ta có thể dâng tặng tiền bạc cho Ngài là ban cho người khác. Bởi đó, việc dâng hiến là một hình thức thờ phượng.
Một trong những phương cách căn bản nhất để dâng hiến cho Chúa là phần mười, tức là dâng mười phần trăm thu nhập của bạn bằng việc nêu gương và bằng mạng lệnh trực tiếp, việc dâng phần mười được coi là điều bình thường đối với mỗi một người theo Chúa trong suốt thời Cựu ước. Việc dâng phần mười đã bắt đầu từ trước khi có luật pháp (SaSt 14:20) và Chúa Jesus đã tỏ rõ rằng việc dâng phần mười phải được tiếp tục giữ không được bỏ qua (MaMl 23:23).
Tuy nhiên việc dâng phần mười không làm cho chúng ta rộng rãi. Nếu chúng ta chỉ dâng mười phần trăm, thì điều đó khiến chúng ta khá hơn tên ăn trộm được một phần trăm. Lời Chúa cho chúng ta thấy Ngài coi mười phần trăm là tài sản của Ngài, và bất cứ số lượng nào kém hơn đều bị xem như là ăn trộm của Ngài (3:8, 9LeLv 27:30-32). Nhưng phần mười chỉ là một sự nhắc nhở để chúng ta nhớ rằng Ngài sở hữu mọi sự, Ngài là một trăm phần trăm của mọi nguồn cung cấp, Đức Chúa Trời phán rằng bạc và vàng đều là của Ngài (AgKg 2:8) và rằng đất và mọi vật thuộc về đất đều là của Ngài (Thi Tv 24:1). Theo lời Chúa, chúng ta không sở hữu điều gì cả. Bất cứ điều gì chúng ta có đều chỉ là mượn của Chúa và chúng ta chịu trách nhiệm để sử dụng cách khôn ngoan cho những mục đích của Ngài.
Đó là lý do vì sao khuôn mẫu dâng hiến của Tân ước vượt quá phần mười, sự rộng rãi thậm chí cũng chưa thành hình cho đến khi chúng ta vượt qua khoản phần mười tối thiểu của thời Cựu ước. Buồn thay, nhiều Cơ Đốc nhân vẫn chưa thôi lấy trộm mười phần trăm mà lẽ ra phải thuộc về Đức Chúa Trời. Thực tế, phần lớn những người thường xuyên đi nhà thờ, đều không dâng phần mười. Theo thăm dò của John và Sylvia Ronsvalle, mặc dầu tỉ lệ thu nhập tư bản gia tăng lạ lùng trong những năm từ 1968 – 1985, tỉ lệ thu nhập của những người đi nhà thờ lại giảm đi từ 3 xuống 2,8 phần trăm, và họ dự đoán rằng nếu khuynh hướng này cứ tiếp diễn thì chẳng bao lâu mức dâng hiến có thể thấp xuống mức 1,94 phần trăm. 3
Lời Chúa tuyên bố rằng toàn bộ tình trạng tài chánh của chúng ta đều bị rủa sả nếu chúng ta không dâng phần mười (MaMl 3:9). Có thể bạn đang trong tình trạng này và không hiểu làm thế nào có thể tồn tại để trả hết mọi khoản nợ tồn đọng nếu dâng hết 100 phần trăm số thu nhập ít ỏi mà mình có. Tôi xin kể cho bạn một câu chuyện.
Một đầy tớ Chúa nhân dịp viếng thăm, vừa kết thúc một bài giảng sôi động về bổn phận phải dâng phần mười của mỗi một Cơ Đốc nhân. Ông nhấn mạnh cách Đức Chúa Trời vui lòng bày tỏ sự cung ứng thành tín của Ngài cho những ai tôn kính Ngài qua việc dâng phần mười. Sau đó, vị Mục sư chủ tọa của Hội thánh nhỏ bé đang vật lộn ấy mới tỏ riêng với vị đầy tớ đang thăm viếng tại đó rằng “Thật sự thì tôi và nhà tôi đã không thể dâng phần mười từ nhiều năm nay rồi. Chúng tôi đã phải chật vật lắm mới chỉ vừa đủ tiền thuê nhà và mua thức ăn!”
Vị Giáo sĩ lắng nghe với vẻ đầy thông cảm. Rồi ông đưa người bạn mới của mình đến một thách thức. Ông bảo vị mục sư của mình hãy thử dâng phần mười trong một năm, để ra mười phần trăm trước tiên, trước khi thanh toán bất cứ các hóa đơn nào hoặc chi tiêu một khoản tiền nào “Nếu có khi nào anh khám phá ra mình bị thiếu hụt một số tiền mà mình cần, bất cứ vì lý do gì…” ông ngừng lại và viết số điện thoại tại nhà lên một tấm bưu thiếp “thì hãy gọi cho tôi, tôi sẽ bù vào chỗ chênh lệch mà không đòi hỏi gì cả”.
Một năm trôi qua và vị mục sư trẻ tuổi gọi điện thoại cho vị giáo sĩ lớn tuổi với một lời tường thuật thật phấn khởi “Thưa ông, suốt trong năm nay, tôi không phải gọi điện cho ông một lần nào cả đúng như điều ông đã nói, cứ mỗi tuần, chúng tôi biệt riêng mười phần trăm ra trước. Và rồi chúng tôi luôn luôn có đủ số tiền cần dùng. Tiền bạc đến thật đúng lúc. Thật sự tôi không hiểu là bằng cách nào nữa, nhưng chúng tôi luôn có đủ tiền cho các nhu cầu của mình”.
“Thật cảm tạ Đức Chúa Trời, người anh em à”. Vị giáo sĩ nói qua điện thoại và đi đến điểm gút của vấn đề “Nhưng vì sao ông lại có thể tin cậy vào sự hỗ trợ của tôi mà lại không tin vào Đức Chúa Trời?”
Chính Đức Chúa Trời là Đấng hứa chúc phước cho chúng ta nếu chúng ta dâng phần mười “Các ngươi khá lấy điều này mà thử ta, Chúa toàn năng phán: xem ta có mở các cửa sổ trên trời, đổ phước xuống cho các ngươi đến nỗi không chỗ chứa chăng” (3:10). Một tôi tớ Chúa nói rằng trong hết thảy những năm ông hầu việc Chúa cho những nơi tiêu điều ở các khu ổ chuột, ông chưa bao giờ gặp được một người ban cho hào phóng hoặc một người trung tín dâng phần mười cho Chúa.
Nếu sự rộng rãi của Tân ước vượt quá số lượng tối thiểu của phần mười, thì bạn phải dâng bao nhiêu đây? Bạn làm sao để biết khi nào thì phải đáp ứng cho một nhu cầu và khi nào phải để dành tiền để giải quyết các trách nhiệm của bạn về mặt tài chánh, kể cả các trách nhiệm gia đình riêng của bạn? Nguyên tắc của Tân ước thật là đơn giản: Mọi điều bạn sở hữu và bạn có, đều thuộc về Đức Chúa Trời. Và giống như Chúa Jesus, bạn phải cầu hỏi sự chỉ dẫn của Đức Chúa Cha trong mọi sự. Bạn chỉ cần nói “Lạy Chúa, con đây. Và đây là tất cả tiền bạc của con. Ngài muốn con làm gì?” Khi bạn biết được một nhu cầu nào, hãy cầu hỏi Chúa bạn có phải dâng hiến không và dâng bao nhiêu. Hãy vâng lời Chúa. Sự dâng hiến trong Tân ước đặt nền tảng trên sự đầu phục hoàn toàn, hãy lắng nghe tiếng Chúa và thuận phục bất cứ điều gì Ngài bảo bạn làm, rồi sau đó hãy tin cậy Ngài để làm điều bạn không thể làm.
Ghi chú : Chương 6
1. Tên thật đã được đổi
2. Tác phẩm Touched by the Fire: Eyewitness Accounts of the Early Twentieth Century Pentecostal Revival của Wayne E. Warnen, Logos International, 1978 trang 25-27
3. “Nguyên nhân của việc tìm kiếm linh hồn”
Tường Trình Viên của Hội The United Methodist ngày 16 tháng 11 năm 1990

ĐƯỜNG LỐI KINH TẾ THÍCH HỢP CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
Hai người đàn ông, rõ ràng là từ phương Tây đến.Chỉ cần nhìn quần áo trên người họ thôi cũng đủ để nói lên điều đó khi họ vội vã đi xuống một con đường đầy ổ gà, thỉnh thoảng họ lại dừng bước để đối chiếu một mảnh giấy trên tay rồi so sánh nó với một vài điểm mốc ở chung quanh mình. Họ không thể hỏi bất cứ ai để tìm sự chỉ dẫn. Vào năm 1968, nếu như bạn không biết đường để tìm được chỗ bạn muốn đến ở tại Sofia, thuộc nước Bulgari thì có thể bạn đã không được phép đến đó.
Cuối cùng hai người bước vào một căn nhà, tìm được đường lên cầu thang tối om suốt đường đi đến một căn hộ ở gác xép, họ gõ cửa. Một phụ nữ tóc màu xám tro mở cửa một cách e dè, đoạn bà ra hiệu mời họ vào. Chỉ cần liếc quanh căn gác nhỏ bé là có thể thấy rõ sự nghèo nàn của bà. Một chiếc bóng đèn trần trụi không có chụp, hắt một làn ánh sáng yếu ớt lên chiếc giường, một chiếc bàn nhỏ, hai chiếc ghế và vài chiếc xô được đặt ở các “vị trí chiến lược” sẵn sàng đón các lỗ dột trên mái nhà.
Hai người thanh niên tự giới thiệu họ là Jens và Peter, hai Cơ Đốc nhân người Đan mạch, và họ thò tay vào túi lấy tiền Bulgari ấn vào tay bà.
“Đây là số tiền dùng cho nhu cầu của các thánh đồ ở tại đây”, Jens giải thích “nhất là vợ của các mục sư”
“Ô, các anh em yêu dấu!”, bà ta kêu lên, nắm chặt những tờ giấy bạc trong đôi tay xương xẩu vì lao động “Thật Chúa đã đáp lời cầu nguyện, nhất là cho các đứa trẻ!”. Jens không thể ngăn gì được nhưng anh hơi e ngại trước sự cảm kích của bà. Anh nhìn qua vai bà. Liệu căn phòng này có bị nghe trộm không? Anh biết điều họ đang làm là bất hợp pháp…Nhưng họ cũng biết rõ ràng có nhiều Mục sư trong đất nước này đang bị cầm tù, và gia đình của họ không có phương tiện gì để sinh sống. Những Cơ Đốc nhân khác bị buộc phải làm những công việc hèn mọn nhất của một tôi tớ, vì họ đã đứng về phía Đấng Christ. Phần lớn những người tin Chúa đều có một gia đình đông đúc. Vì vậy, những người ngoại quốc đã mang tiền đến để họ có thể mua thức ăn, áo quần và thuê nhà. Người phụ nữ nầy được tin cậy để chuyển số tiền ấy đến những nơi có nhu cầu.
Khi Jens và Peter định ra về thì người phụ nữ Bulgari nầy phản đối “Không, các anh chưa được đi đâu! Đừng ra về khi chưa nhận sự tiếp đãi của tôi”. Hai người Đan mạch nhìn quanh. Họ nhận gì từ vị thánh đồ rõ ràng là thiếu thốn này? “Không, thật mà, chúng tôi vừa dùng bữa rồi. Chúng tôi phải tiếp tục lên đường thôi”.
Dầu vậy, bà ta cứ nhất định mời họ ngồi vào ghế một cách hãnh diện. Bà ta thận trọng đặt những chiếc ly trơn lớn trước mặt họ. Đoạn, bà mang ra từ trong chiếc tủ chén nhỏ một tặng phẩm hết sức quý báu của lòng mến khách…một lọ mứt trái cây để dành. Bà rót nước lạnh vào các chiếc cốc, rồi đưa cho các vị khách những chiếc muỗng nhỏ để dùng lọ mứt quí báu ấy. Đó là tất cả: Nước lạnh và những muỗng mứt nhỏ.
Làm thế nào bạn đo được sự rộng rãi ấy? Bạn không thể chỉ dùng đôla hoặc đồng xu mà đo lường điều ấy được. Sự rộng rãi luôn luôn được đặt cơ sở trên sự tương xứng của tặng phẩm với điều mà người cho sở hữu. Người phụ nữ này giống như người đờn bà góa trong thời Chúa Jesus đã bỏ hai đồng xu vào rương tiền, là một con người hào phóng phi thường!
Hàng năm, Hoa Kỳ cho đi một số lượng bằng với hai phần trăm tổng sản lượng quốc gia tức là 90 tỉ Mỹ kim trong năm qua 1. Một trong những quốc gia giàu nhất thế giới nên ban phát để giúp cho những nhu cầu của nhân loại. Tuy nhiên, điều ngạc nhiên là những người Hoa Kỳ nào đã dâng góp. Theo một cuộc thăm dò của thủ đô Washington, D.C đặt cơ sở trên Khu Vực Tư Nhân, năm 1988, tỉ lệ phần trăm cao nhất của những người dâng tặng là giữa vòng những người có mức thu nhập chưa đến 10.000 Mỹ kim một năm 2. Cục Điều Tra Dân Số đã khám phá một điều tương tự: những gia đình có mức thu nhập dưới 15.000 một năm, dâng tặng gấp hai lần nhiều hơn các gia đình có mức thu nhập trên 100.000 Mỹ kim mỗi năm 3, tính theo tỉ lệ phần trăm. Mặc dầu Hoa Kỳ từ trước đến nay vẫn có những người giàu rộng rãi, nhưng số những góa phụ dâng hiến những số tiền khiêm tốn với tấm lòng rộng rãi của họ vẫn vượt trội hơn con số kia.
Sự Dâng Hiến Bởi Đức Tin
Điều đó cũng giống như trong thời Phao Lô. Ông đã đưa các hội thánh thuộc xứ Maxêđoan ra làm gương, họ là những người đang lúc chịu hoạn nạn thử thách và trãi qua cơn rất nghèo khó, đã trãi rộng sự dư dật của lòng rộng rãi mình” (IICo 2Cr 8:1-5). Những người này đã ban cho vượt quá khả năng của họ, họ tự nguyện nài xin Phao Lô cho họ có cơ hội dự phần trong việc giúp đỡ các thánh đồ trong các xứ khác. Những câu Kinh Thánh nầy trong IICôrinhtô 8 cho chúng ta thấy được một số khía cạnh của sự rộng rãi theo Kinh Thánh…
. Không bao giờ là điều bị bắt buộc theo luật pháp, mà hoàn toàn do tự nguyện. Chúng ta vẫn có quyền sở hữu cá nhân, song ban cho nhưng không điều chúng ta muốn chia xẻ (trong câu 3 và Cong Cv 2:43-47)
. Đó là một sự ban cho hậu hĩ, chứ không phải chỉ là điều gì đó không thể thiếu được (câu 2,3)
. Mặc dầu điều đó vượt quá sức chúng ta và phải trả giá, nếu như chúng ta ban cho là bởi vì Chúa bảo chúng ta hãy làm, thì có một sự vui mừng lớn trong việc ban cho đó, thậm chí là điều vô cùng vui sướng (câu 4, và trong IICo 2Cr 9:7)
. Điều đó đến trước hết bởi lòng yêu kính Chúa và sau đó vì lòng yêu người (câu 5)
Loại ban cho bởi đức tin nầy sẽ luôn luôn được Đức Chúa Trời ban thưởng. Điều đó đến bởi một tấm lòng rộng rãi là một thái độ vươn rộng đến các lãnh vực khác hơn là tiền bạc. Nếu chúng ta có tấm lòng rộng rãi, chúng ta sẽ rộng rãi với thì giờ của mình, rộng rãi với sự tha thứ, rộng rãi với sự giảng dạy, rộng rãi với ảnh hưởng của chúng ta, rộng rãi với đồng bào của mình, rộng rãi với bất cứ nguồn tiếp trợ nào mà Chúa ban cho chúng ta.
Chương Trình Của Đức Chúa Trời Dành Cho Sự Cung Ứng
Như chúng ta đã thấy trong chương trước rằng dâng hiến là một hình thức của sự thờ phượng Đức Chúa Trời. Nhưng Chúa đã hoạch định một số đáp số thích hợp từ sự rộng rãi của chúng ta, bao gồm sự cung ứng cho những người thuộc các phạm trù đặc biệt.
Kinh Thánh bày tỏ những phương cách để qua đó sự cung ứng được thực hiện cho con người. Mỗi chúng ta rơi vào một trong những phạm trù này : 4
. Những Người Cột Trụ Gia Đình
. Những Người Nghèo Nàn và Thiếu Thốn
. Những Người Được Sai Đi
. Những Người Được Nuôi Bởi Mana
Những Người Cột Trụ Của Gia Đình
Đức Chúa Trời phán với Ađam rằng ông phải làm đổ mồ hôi trán để có bánh ăn. Đó là mạng lệnh đầu tiên được ban phát sau khi loài người sa ngã. Thành phần cột trụ gia đình nằm trong số đông dân chúng, họ là những người lao động để đem lại hàng hóa hoặc các dịch vụ. Hầu hết các mục sư và giáo sĩ đều thuộc vào tầng lớp nầy, bởi vì họ cung ứng một sự phục vụ mà qua đó họ nhận tiền công. Nguyên tắc này dành cho những người hầu việc Chúa trọn thì giờ, xứng đáng được hưởng tiền lương, đã được chính Chúa Jesus tán đồng (LuLc 10:7) cũng như Phao Lô (ICo1Cr 9:7-14ITi1Tm 5:17-18)
Một nhà truyền đạo trẻ tuổi mới đây nói rằng mục tiêu của anh là phải sử dụng những cuộc đầu tư khôn ngoan để anh sẽ được hầu việc Chúa tự do trong vòng một vài năm. Thoạt đầu điều đó nghe như có vẻ hợp lý. Anh ta sẽ được tự do chăn bầy ở những nơi mà tín hữu không cấp dưỡng cho anh nổi. Anh có thể chọn bất cứ chức vụ hầu việc nào mà mình muốn mà không phải lo lắng về việc phải nhận sự giúp đỡ từ nơi bất cứ ai. Tôi không thắc mắc về những động cơ đã thúc đẩy vị truyền đạo trẻ tuổi này, nhưng tôi thật sự thắc mắc về sự khôn ngoan của kế hoạch đó. Đó thật sự là điều lẫn tránh khuôn mẫu đã có của Thánh Kinh đối với việc con cái Chúa phải dâng hiến cho những người thi hành chức vụ trên họ.
Những Người Nghèo Nàn và Thiếu Thốn
Nhu cầu của những người nghèo phải được cung ứng bởi sự rộng rãi của chúng ta. Thay vì đánh thuế người dân và phân phối lại của cải bằng những đường lối khách quan của chính phủ. Kinh Thánh ủng hộ quyền hạn của chúng ta đối với quyền sở hữu cá nhân song cũng nhắc nhở chúng ta hãy ban phát rộng rãi cho những người nghèo thiếu.
Kinh Thánh nói chúng ta luôn có những người nghèo thiếu giữa vòng chúng ta. Vì nhiều lý do khác nhau, một số họ nghèo chỉ vì họ là những nạn nhân vô tội, một số khác nghèo khổ vì những quyết định sai lầm. Song dẫu vì bất cứ lý do gì, chúng ta cũng không được cứng lòng (PhuDnl 15:7, 11; IGi1Ga 3:17), viện cớ, hoặc bảo họ đi với hai tay không (Gia Gc 2:16). Chúa Jesus không bảo chúng ta chỉ ban cho những kẻ nghèo khổ xứng đáng. Ngài không bảo “Hãy ban cho kẻ nào xin ngươi… trừ khi kẻ ấy không phải là kẻ chuyên lừa đảo hoặc đã từng thiếu khôn ngoan trong việc quản lý tiền bạc của mình”. Không, Ngài bảo “Hãy cho người”. Ban cho là một hành động do lòng thương xót, và lòng thương xót không bao giờ đòi hỏi sự xứng đáng.
Nếu anh em ở gần ngươi trở nên nghèo khổ, tài sản người lần lần tiêu mòn, thì hãy cứu giúp người, mặc dầu là kẻ khách kiều ngụ, hầu cho người cứ ở cùng ngươi (LeLv 25:35)
Khi tôi còn là một cậu bé ở tại El Centro, thuộc tiểu bang California, gia đình tôi sống gần công viên của thành phố, ở bên kia đường. Giai đoạn ấy thật khó khăn và thường có hàng trăm người vô gia cư ngủ lại tại công viên đó. Họ thường đến nơi cửa sau nhà chúng tôi, đứng với chiếc nón trên tay và hỏi xin chúng tôi có gì cho họ ăn không, với thái độ rất kính cẩn. Tôi chưa bao giờ thấy mẹ tôi từ chối một ai. Chính chúng tôi cũng chỉ có những bữa ăn giới hạn và đạm bạc, chỉ tạm đủ nhờ vào tiền phần mười và tiền dâng hàng tuần của tín đồ trong hội thánh. Nhưng mẹ tôi luôn cho họ thức ăn và có khi còn cho một người mượn một chiếc mền bông để đắp khi ông ta phải ngủ ngoài công viên.
Có nhiều cách để giúp người khác, và có một số cách để lại một ảnh hưởng lâu bền hơn. Kinh Thánh phân biệt kẻ lười nhác với những người nghèo thiếu do bị đối xử bất công. Chúng ta được dạy rằng “Nếu ai không khứng làm việc, thì cũng không nên ăn nữa” (IITe 2Tx 3:10). Vì vậy, chúng ta phải tìm cách giúp cho những người nghèo có thể tự kiếm sống được. Nhưng điều quan trọng nhất là chúng ta không được cứng lòng cũng không được biện hộ cho việc trốn tránh trách nhiệm cứu giúp họ bằng cách thực hiện một điều nào đó.
Chúa có rất nhiều lời hứa trong Kinh Thánh dành cho những ai ban phát cho kẻ nghèo. Dưới đây chỉ là một vài câu điển hình
. Ai thương xót kẻ nghèo, tức cho Đức Giêhôva vay mượn (ChCn 19:17)
. Có người rãi của mình ra, lại càng thêm nhiều lên (11:24)
. Người nào có mắt từ thiện sẽ được phước (22:9)
. Người sẽ nên tôn trọng (EsIs 58:10)
. Người sẽ được thịnh vượng (ChCn 11:25)
. Mọi nhu cầu của người sẽ được chu cấp (Thi Tv 4:19)
. Cha người sẽ thưởng lại cho người (Mat Mt 6:4)
. Bạn sẽ được giải cứu trong ngày tai họa (Thi Tv 41:1)
. Các vựa lẫm của bạn sẽ đầy dư dật (ChCn 3:10)
. Bạn sẽ chẳng thiếu thốn gì (28:27)
. Bạn sẽ có của cải trên thiên đàng (Mat Mt 19:21)
. Bạn sẽ biết rõ Đức Chúa Trời (Gie Gr 22:16)
. Con người và đất đai mà Chúa sẽ ban cho bạn đều sẽ được phước (LeLv 26:5)
Chúa Jesus cũng đã từng phán rằng khi chúng ta ứng hầu trước mặt Ngài trong ngày đoán xét, cách đối đãi của chúng ta đối với kẻ nghèo sẽ là một trong những tiêu chuẩn mà qua đó chúng ta bị xét đoán (Mat Mt 25:31-36)
Những Người Được Sai Đi
Một lớp người khác nữa mà tôi gọi là “những người được sai đi” thay cho từ “Các nhà truyền giáo” bởi vì chúng ta rất thường hay diễn giải hẹp hòi “Các nhà truyền giáo” như là những người đội mũ bấc, giảng dạy dưới những tán cây cho những người bản xứ sống trong những vùng rừng rậm xa xôi. Nguồn gốc ban đầu của chữ “nhà truyền giáo” có nghĩa là “một người được sai đi”
Những người nầy được một tập thể sai họ đi cách vô kỷ, để làm một công tác nào đó cho một tập thể khác. Có thể là một người được sai đi để đến với khu ổ chuột thuộc Detroit. Hoặc có thể đó là một người được cử đi để xây dựng một ngân hàng dữ liệu vi tính ở tại Thụy sĩ để theo vết tiến triển của thế giới về việc hoàn thành Đại Mạng lệnh. Hoặc một người được sai đi để có thể mang tin lành đến một bộ tộc chưa ai đến được ở những đoạn kênh xa xôi nhất thuộc sông Amazôn.
Những ai ban phát rộng rãi cho những người được sai đi, bản thân họ không nhận được lợi nhuận cho chính mình. Họ ban cho là bởi vì lòng họ yêu kính Chúa và vì họ hiểu rằng rất hiếm khi người ta trông đợi nơi những người hư mất việc trả công cho người nào mang Tin Lành đến cho họ. RoRm 10:14-15 chép rằng: “Nếu chẳng ai rao giảng thì nghe làm sao? Lại nếu chẳng ai được sai đi, thì rao giảng thế nào? Đức Chúa Trời đã định cho sự rộng rãi của chúng ta là để giúp đỡ cho những người được sai phái ra đi mang theo Tin lành” (IIIGi 3Ga 6:8)
Những Người Được Nuôi Bằng Mana
Có một số người, vì những mục đích đặc biệt hoặc sự kêu gọi đặc biệt của Đức Chúa Trời, được Đức Chúa Trời trực tiếp cấp dưỡng. Giống như dân Ysơraên nhận Mana trong đồng vắng hoặc như tiên tri Êli được nuôi bằng những con chim quạ, loại chu cấp trực tiếp từ Đức Chúa Trời như vậy chỉ trong một thời gian ngắn, trong những hoàn cảnh rất đặc biệt, hoặc vì một sự bày tỏ gây ấn tượng mạnh về quyền năng của Ngài.
Chúng tôi đã từng thấy những trường hợp như vậy xảy ra trong tổ chức Thanh Niên với Một Sứ Mạng. Trong lúc 175 nhân sự của chúng tôi đang ở tại Hylạp, chuẩn bị cho chiếc tàu thương xót m/v Anastasis nhổ neo, họ đã chứng kiến một sự cung ứng trực tiếp, giống như việc bánh mana. Một buổi sáng, trong một khoảng thời gian tương đối gian khổ, 8.301 chú cá đã nhảy lên bãi biển ngay phía trước chỗ họ tạm nghỉ lại. Họ cẩn thận ướp chúng và đã sử dụng sự cung ứng đó trong nhiều tháng để bổ sung cho các bữa ăn thiếu thốn của họ. Không ai giải thích được vì sao đàn cá lại nhảy lên khỏi nước. Những người dân Hylạp địa phương, thậm chí những người hàng xóm cao tuổi nhất, cũng chưa bao giờ thấy một sự kiện như vậy đã xảy ra. Và cá chỉ nhảy lên ngay trước nơi mà các thành viên của Hội Thanh Niên Sứ Mạng đang ngụ mà thôi. Điều đó dường như là một sự cung ứng bằng mana.
Một chuyện lạ lùng đã xảy đến cho Reona Peterson, thiếu nữ trong chuyến đi đến Anbani mà tôi đã chia xẻ cho quý vị ở chương đầu tiên.
Trong một hành trình truyền giáo khác, Reona và một người bạn gái của cô là Celia đang ở tại Edinburgh, họ phải rời nơi đó ngày hôm sau trên một chuyến phà để đến quần đảo Hebrides, họ không đủ tiền và không biết phải làm thế nào. Reona và Celia cầu nguyện xin Chúa tiếp trợ. Nhưng Ngài sẽ làm cách nào đây, chỉ trong vòng 24 giờ đồng hồ, trong một thành phố mà không ai quen biết họ?
Họ đi bộ xuống phố Princess, giữa đám đông những người khách đi bộ trên đường phố ban ngày, và dừng lại ở một ngã tư đường để đợi đèn đổi. Ngay khi Reona bước khỏi lề đường, cô chợt nhìn xuống chân, “Xem nầy, Celia!”, Cô kêu lên “Kìa, trên chiếc giày của tôi đấy! Làm sao mà nó lại nằm ở đây?”. Cô cuối xuống và gỡ đồng tiền một bảng Anh mắc kẹt trong chiếc khóa trang trí ở trên chiếc giày của cô. Thế rồi cô lại trông thấy một đồng pao khác nằm ngay dưới gót giày của cô. Họ nhìn tới phía trước rồi quay ra phía sau…chẳng một ai trong đám đông ngoái lại. Hơn nữa, nếu có ai đã đánh rơi tiền, thì làm sao một trong hai tờ bạc ấy lại mắc trong chiếc khóa trước mũi giầy? Ngày hôm ấy trời lại không hề có gió để mà thổi tờ bạc để bằng cách nào đó nó mắc vào chiếc giày của cô. Thật đúng số tiền mà họ cần để trả tiền vé cùng với một số những điều có cần khác khi đến Hebrides. Hai thiếu nữ biết chắc chắn rằng Chúa đã đặt tờ bạc trên và dưới giầy của Reona.
Vì sao chuyện này rất hiếm khi thấy? Làm sao lại có những câu chuyện quá hi hữu như vậy? Thậm chí lại còn khó tin nữa? Rốt lại, Đức Chúa Trời đã nuôi hàng triệu người trong dân sự của Ngài một cách diệu kỳ trong đồng vắng suốt bốn mươi năm khiến cho thức ăn phải “hiện ra” trên mặt đất. Ngài cũng đã để đồng bạc ở trong miệng cá để Phierơ tìm được. Vậy, tại sao Ngài không làm những phép lạ ấy thường xuyên hơn?
Có nhiều lý do vì sao những sự kiện “mana” xuất hiện nầy hiếm khi xảy ra. Thường thường, Chúa dùng con người để đáp ứng các nhu cầu của người khác. Một lý do, đó là vì Ngài muốn thực hiện nhiều hơn việc chỉ đáp ứng các nhu cầu thuộc thể. Ngài muốn đem chúng ta lại với nhau trong sự hợp nhất qua việc ban cho. Chúng ta sẽ hiểu chi tiết điều nầy hơn trong chương kế tiếp.
Một lý do khác khiến Đức Chúa Trời thường sử dụng con người đó là vì Ngài muốn bày tỏ cho chúng ta một chân lý: Ban cho có phước hơn là nhận lãnh. Ngài muốn chúng ta học biết các phước hạnh của lòng rộng rãi. Để rồi chúng ta sẽ trở nên giống như Ngài. Đức Chúa Trời yêu kẻ thí của cách vui lòng (IICo 2Cr 9:7) bởi vì Ngài cũng có một tấm lòng ban cho như vậy. Lòng rộng rãi thật thì ban cho cách nhưng không, không có những sợi dây trói buộc, không bởi những động cơ vị kỷ, và không có tham vọng kiểm soát. Kẻ thí của cách vui lòng chỉ ban cho và để Đức Chúa Trời đổ đầy lại chén của mình, khiến mình lại có thể ban cho.
Bà Corrie ten Boorn vẫn thường dạy dỗ ở tại các trường học của hội Thanh Niên Sứ Mạng chúng tôi trước khi bà qua đời vào năm 1983. Tôi sẽ không bao giờ quên sự giải bày mộc mạc của bà về cách Đức Chúa Trời ban thưởng cho lòng rộng rãi như thế nào. Bà đứng trước lớp huấn luyện các nhà truyền giáo trẻ tuổi và để hai cái chai trước mặt họ, chai nào cũng đổ đầy cát. Một chai có miệng hẹp và chai kia miệng rộng. Bà cầm cái chai miệng rộng lên và đổ cát trong chai ra…, cát nhanh chóng đổ hết ra bàn, còn lại cái chai không. Sau đó bà bắt đầu dốc cát ra từ cái chai miệng hẹp, cát từ từ rỉ ra phải mất một hồi lâu mới trống chai.
“Các em thấy không”, bà nói trong lúc đợi dòng cát mỏng manh chảy xuống “chiếc chai này giống như một số Cơ Đốc nhân”. Họ dâng hiến cho Chúa, song không mau mắn và không rộng rãi lắm. Nhưng bây giờ các em hãy xem điều gì xảy ra”. Bà đã làm xong và đã bắt đầu đảo ngược tiến trình, cho cát vào trở lại mỗi chai. Cái chai miệng rộng rất mau đầy và tràn đến miệng. Song với cái chai miệng hẹp, bà phải mất một hồi lâu và khó nhọc để làm đầy lại. Nó ban cho một cách khó khăn và rồi nó cũng nhận lại sự khó khăn như vậy.
Bạn giống loại chai nào?

Ghi chú : Chương 7
1. Quyển Thế Kỷ Cơ Đốc. The Christian Century, ngày 14 tháng 12 năm 1988, trang 1140-1141
2. Cũng trong tác phẩm trên
3. National Review (mục điểm lại, phê bình các sự kiện trong nước, 10/3/1989 trang 44
4. Tôi mang ơn người bạn của tôi, Rod Gerhart, vì đã nêu ra bốn lớp người nầy, và tôi đã áp dụng vào đây

SỰ CẤP DƯỠNG CỦA HỘI TRUYỀN GIÁO, PHƯƠNG PHÁP CỦA CHÚA JESUS

Vì sao Đức Chúa Trời không lập tức cung ứng tất cả số tiền chúng ta cần cho công việc của Ngài trên đất? Chắc chắn là Ngài có thể dẫn dắt một nhà tỉ phú nào đó, là người yêu mến Ngài, viết một chi phiếu khổng lồ, tài trợ cho việc hoàn thành Đại Mạng Lệnh Truyền Giáo. Hoặc Ngài có thể giúp đỡ cho ai đó là người yêu mến Ngài, là người được tin cậy, tình cờ phát hiện một kho báu chôn giấu, hoặc bất ngờ có được một số tiền lớn và dâng tất cả cho công việc Chúa. Hoặc tại sao Chúa không khiến cho một trong những người hết sức yêu mến Ngài trúng số chừng 10 triệu ?
Những ai trong chức vụ đã từng vật lộn trong nước mắt, tự hỏi không biết làm thế nào mà mình vẫn còn tiếp tục ở trong sự kêu gọi, cũng đều phải có những câu hỏi tương tự. Một nhà truyền giáo đã có lần kêu lên trong sự tuyệt vọng “Chúng tôi không bao giờ có đủ tiền để làm điều chúng tôi dự định phải làm. Cứ như là Đức Chúa Trời đã cột trói một tay tôi ở sau lưng rồi bảo tôi hãy làm cũng chừng đó công việc. Thật là không công bằng!”
Và vì sao các nhà truyền giáo phải làm công việc gởi những thư từ xin giúp đỡ? Tôi tin chắc rằng mỗi một nhà truyền giáo đều đã có nhiều lần sốt ruột vì phải liên tục viết các bức thư hoặc gởi các lá thư xin giúp đỡ cho những người ở tại quê nhà. Rốt cuộc, hầu hết đều không được hồi âm. Và một hoặc hai ngày bị mất đi trong tháng để làm công việc thông tin như vậy, thật là đáng tiếc. Rốt lại, các lao tác viên giảm đi trong công việc Chúa, và sức ép của công việc thì thật lớn, đè trên một số ít người. Vậy tại sao chúng ta phải làm công việc quan trọng nhất trên thế gian này theo cách ấy?
Chúng ta cần nắm vững trong trí mình phương pháp của Đức Chúa Trời khi nhìn vào chức vụ hầu việc và vấn đề tiền bạc. Chúng ta đang lo ngại rằng bằng phương cách nào công việc được tiến hành và có tiền để các mục tiêu của chúng ta được hoàn thành tốt đẹp. Rốt lại, đó là những mục tiêu cho công việc Chúa, phải không?
Tuy nhiên, Đức Chúa Trời lại có một nhân tố quyết định khác hẳn. Mối quan tâm hàng đầu của Ngài là việc khôi phục lại các mối tương quan giữa chúng ta với Ngài và giữa chúng ta với nhau. Đó là lý do vì sao Ngài hoạch định điều đó hầu cho chúng ta phải dựa vào những người khác để hỗ trợ mặt tài chánh đang khi chúng ta làm công việc Ngài.
Chúa Jesus đã nêu gương về lãnh vực đó cho chúng ta, Ngài đã tự cấp dưỡng cho mình với tư cách là một người thợ mộc trong những năm đầu trưởng thành, nhưng trọn ba năm chức vụ, Ngài và các môn đồ đã có “Giannơ vợ Chuxa, là quan nội vụ của Vua Hêrốt, Susannơ và nhiều người khác nữa cấp dưỡng cho, bằng những của cải của họ ” (LuLc 8:3)
Khi con người dâng hiến của cải cho công việc của Chúa thì nhiều điều kỳ diệu xảy ra. Một câu chuyện từ New Orleans cho thấy một số điều Đức Chúa Trời làm qua sự dâng hiến của chúng ta. Cô bé Lisa mười tuổi kiếm được 15 Mỹ kim từ một garage .Thay vì tiêu món tiền đó vào kẹo bánh, đồ chơi hoặc áo quần. Lisa quyết định dâng số tiền đó cho một nhà truyền giáo đô thị tên là Chuck Morris, đang làm việc với hội YWAM bên trong thành phố “Ông hãy dùng số tiền này cho các hội truyền giáo”, cô bé gái nói và đặt 15 đồng vào tay ông.
Hiểu rằng 15 đồng này có ý nghĩa thế nào đối với một đứa trẻ mười tuổi, ông Chuck thận trọng cân nhắc xem phải đầu tư vào chỗ nào cho em. Sau đó ông nghĩ đến David, một bé trai gần mười tuổi mà chẳng bao giờ em có cơ hội để được gặp gỡ. David không có việc làm và phải ngủ trong công viên của thành phố. Nhưng ông Chuck đã đưa dắt David đến với Chúa. David muốn tìm một việc làm, nhưng cậu không thể mua nổi tấm thẻ căn cước người ta đòi hỏi để được làm việc ở tại Louisiana. Ông Chuck quyết định dùng số tiền 15 Mỹ kim của Lisa mua thẻ căn cước cho David để cậu ta có được sự tự trọng do có một việc làm được trả lương.
Sau đó ông Chuck gởi cho Lisa một tấm hình của David và một lá thư để giải thích 15 Mỹ kim của em đã có ý nghĩa như thế nào đối với David. Trong vòng vài tuần lễ sau, David cũng viết cho Lisa một lá thư để cảm ơn cô và cho cô biết anh đã tìm được một việc làm. Ngày nay, Lisa vẫn thường cầu nguyện đều đặn cho David, vì biết rằng số tiền em dâng cho Chúa đã tạo được một sự thay đổi trong đời sống của một con người.
Đó chỉ là một câu chuyện nhỏ giữa cả triệu câu chuyện như vậy, nhưng nó cho thấy nhân tố quyết định là Chúa, có liên quan đến vấn đề tài chánh trong chừng mực nào. Hàng cuối cùng trong quyển sổ chi thu của Ngài chính là các mối tương quan, Đức Chúa Trời đã bày tỏ tình yêu của Ngài bằng cách ban cho, không những Ngài chỉ ban cho chúng ta Con Độc Sanh yêu dấu của Ngài như là một hành động rộng lượng nhất trong lịch sử, nhưng Ngài vẫn không ngừng ban cho mỗi một người trong chúng ta.
Lời Chúa cho chúng ta biết rằng mọi ân điển tốt lành đều đến từ Cha Thiên Thượng của chúng ta (Gia Gc 1:17). Đến lượt chúng ta cũng bày tỏ lòng yêu thương đáp lại với Ngài bằng cách ban cho người khác. Song thay vì chỉ làm vững mạnh mối quan hệ yêu thương giữa chúng ta với Chúa, việc ban cho của chúng ta còn ràng buộc tấm lòng của chúng ta với người nhận sự ban tặng ấy nữa.
Sự Ban Cho Nối Liền Tấm Lòng
Chúa Jesus cho biết của cải ở đâu, thì lòng chúng ta cũng ở đó. Khi chúng ta dâng “của cải mình cho những người nào đó và cho những chức vụ cụ thể của họ, tấm lòng chúng ta cũng sẽ gắn bó với họ. Chúng ta thấy mình có trách nhiệm phải cầu nguyện cho họ, giống như cô bé Lisa trong câu chuyện ở tại New Orleans. Có thể có những miền đất cách xa chúng ta đến nữa vòng trái đất mà chúng ta không bao giờ ghé đến, nhưng chúng ta sẽ gần gũi hơn với những người đó và với những gì Đức Chúa Trời tạo dựng và làm vững bền các mối quan hệ vì cớ sự ban cho của bạn. Bạn sẽ khiêm nhường khi biết có ai đó dâng hiến cho bạn, nhất là nếu bạn biết họ đã hy sinh để dâng cho bạn và công việc bạn làm. Điều đó khiến bạn cần phải cẩn thận và không được lạm dụng lòng tin cậy mà họ đặt nơi bạn. Đó là điều quan trọng để mỗi người kinh nghiệm được. Lòng kiêu hãnh của chúng ta giảm xuống trước sự dâng hiến rộng rãi, khi chúng ta không thể trả nỗi, song chỉ có thể cảm ơn họ và cầu nguyện xin Chúa ban phước lại cho họ. Thà chúng ta tự cấp dưỡng thì hơn.
Tôi đã nhiều lần trò chuyện với những người muốn một ngày kia sẽ trở thành nhà truyền giáo khi nào họ có thể đủ chi phí theo cách riêng của họ để đi ra. Nhưng điều đáng buồn đó là thậm chí nếu như có một vài người xoay xở được cách để không vướng vào những món nợ và tìm được cách để tự tài trợ cho công việc của mình, thì họ đã bỏ mất mối liên kết của tấm lòng khiêm nhường, của kinh nghiệm khủng khiếp nhưng kỳ diệu xảy ra khi ai đó đặt tiền vào tay bạn và nói rằng Chúa bảo người ấy giao cho bạn.
Có một mối liên kết đặc biệt tồn tại mãi mãi giữa bạn và người đã dâng tặng cho bạn. Bạn quan tâm đến người ấy và bạn cầu nguyện cho người ấy một cách khác biệt hơn với những người không hề dâng tặng cho bạn một cách cá nhân. Bạn cũng sẽ tự nhiên muốn chia xẻ tin tức chức vụ của bạn với người ấy, kể lại những gì mà món quà tặng của người ấy đã làm được cho công việc Chúa.
Tất cả những mối quan hệ này có được là nhờ nguyên tắc ban cho của Chúa Jêsus với tư cách là những chi thể trong Thân của Ngài . Bởi vì mỗi một chức vụ đều cần có tiền bạc, Ngài đã bảo đảm rằng chúng ta sẽ luôn luôn cần đến nhau và luôn luôn phải làm việc dựa trên các mối tương quan của chúng ta. Đồng thời nhu cầu của chức vụ sẽ được đáp ứng, những người có việc làm ở các thành phố và thị trấn sẽ có cái nhìn mở rộng và sẽ đến để nhìn thế giới này theo quan điểm của Đức Chúa Trời, tất cả đều nhờ việc ban cho của họ và những lời tường thuật mà họ nhận được từ những người đại diện cho cá nhân họ “ở tại đó”. Và lời cầu nguyện sẽ tăng lên mọi bề, thực hiện công việc chiến đấu thuộc linh cần thiết cho bất cứ công việc gì cần được hoàn thành. Không điều nào trong những điều này có thể xảy ra để công việc Chúa cứ được tiến triển nếu chúng ta không nhờ vào tiền bạc và những người bằng lòng dâng hiến,
Dường như điều này khó đối với một nhà truyền giáo hoặc vị mục sư đang sống chật vật, song nếu có một ngân quỹ khổng lồ phải tài trợ cho công việc của người ấy, hoặc có một nhà tỷ phú nào đó đã đăng ký một chi phiếu khổng lồ rồi, thì chức vụ của người ấy đã đến lúc tận số. Các giáo sĩ không phải chỉ cần tiền bạc. Họ cần những người nâng đỡ họ, cầu nguyện cho việc mở mang nước Chúa; cam kết với họ trong trận chiến thuộc linh bằng sự dâng hiến và sự cầu thay.
Một Kế Hoạch 30/30 Dành Cho Việc Dâng Hiến Cho Các Hội Truyền Giáo
Tại Phi Châu, một thanh niên tên Archie Guvi từ Zimbabwe đến gặp tôi với một thắc mắc.
“Thưa ông Loren, Đức Chúa Trời đã kêu gọi tôi trở thành một nhà truyền giáo. Nhưng tôi không được cấp dưỡng về mặt tài chánh, và đồng bào tôi chưa bao giờ được dạy về việc dâng hiến cho các nhà truyền giáo. Tôi có thể làm gì ở đây?
Tôi nói với anh ta “Vậy thì anh phải dạy Kinh Thánh bằng tiếng địa phương của họ, không phải Kinh Thánh chép rằng hãy đi khắp thế gian giảng Tin Lành cho mọi người sao?”
Khi anh tỏ vẻ ngần ngại vì không nghĩ rằng những người dân nghèo của anh có thể giúp anh ra đi, tôi hỏi anh ở Zimbabwe một chai nước ngọt bao nhiêu tiền. Anh trả lời “Hai mươi lăm xu”
Tôi nói “Archie, anh có quen biết 25 người mà họ có thể tặng anh một chai côca côla nếu anh đến thăm nhà họ vào một ngày nóng nực và xin họ không?”
“Ồ, có chứ”. Anh trả lời
“Liệu họ có làm điều đó mỗi ngày được không…họ có quen biết và yêu mến anh tới mức đó không?”
“Tôi nghĩ là có”, anh trả lời
“Vậy thì hãy đi tìm 25 người đồng ý mỗi ngày tặng cho anh số tiền bằng một chai Côca Côla”.
Sau đó tôi được tin Archie đã trở thành một nhà truyền giáo. Đáng lẽ tôi phải thách thức anh tìm 30 người, nhưng tôi chỉ nói có 25. Tuy nhiên kiểu mẫu ấy đã hoạt động được ở bất cứ nơi nào, ở mức nhu cầu nào, với một điều chỉnh nhỏ. Có khoảng 30 ngày trong mỗi tháng (chứ không phải 25).
Điều gì sẽ xảy ra nếu mỗi nhà truyền giáo đều ấn định một mục tiêu là tìm cho mình 30 người, mỗi người sẽ chịu trách nhiệm các chi phí của mình chỉ trong một ngày để mình làm công việc Chúa? Người ấy sẽ có 30 người mà tấm lòng của họ theo sau của cải, sẽ cầu nguyện cho người ấy, tin cậy người ấy và nâng đỡ người ấy khi người ấy cần sự khích lệ.
Điều gì xảy ra nếu như có tình trạng khẩn cấp nào đó xảy ra? một sự khủng hoảng nào đó, đòi hỏi phải cầu nguyện thêm? Người truyền giáo ấy sẽ liên lạc với 30 người đó để cầu nguyện, và 30 con người đó có thể có một ảnh hưởng trên 10 người khác. Mỗi người có thể yêu cầu 10 người quen biết họ cầu nguyện, như vậy có nghĩa là 300 người có thể lập tức cầu nguyện cho nhà truyền giáo.
Hãy mở rộng ảnh hưởng đó thành một tổ chức truyền giáo như tổ chức YWAM, làm việc để đem tin lành đến cho mọi vùng đất trên thế giới, và thật lệ thuộc vào nền tảng cầu nguyện của chúng ta. Chúng ta có thể có từ 300.000 đến 3.000.000 người đang cầu nguyện.
Đề án này cũng có thể giải quyết được một số các nan đề thông thường. Tôi vẫn thường thấy những vị mục sư mang gánh nặng ở khắp nơi trên thế giới, vậy mà vẫn còn nghe tiếng kêu xin của một nhà truyền giáo khác nữa. Vị mục sư muốn giúp đỡ, song ông ta đã phải khó khăn để mà cảm thúc dân sự mình ban cho. Ông ta đang đẩy một gánh nặng chết lên một ngọn đồi, tìm cách làm cho tín đồ của mình phải quan tâm đến những người lạ.
Còn có những nan đề khác gắn liền với việc không có sự dâng hiến cá nhân cho các hội truyền giáo. Tôi thường thấy sự nản lòng của một công tác viên khi phải trở về, rời bỏ chức vụ được phân công bởi vì Hội thánh đang cấp dưỡng cho anh ta đột ngột có sự thay đổi chủ tọa, và vị mục sư mới không hề biết gì về anh hoặc không tin tưởng công việc anh đang làm. Chẳng bao lâu sau, Hội thánh bị lâm vào tình thế khó khăn về mặt tài chánh, sự cấp dưỡng của nhà truyền giáo bị cắt đứt. Hoặc thậm chí buồn hơn nữa, các Hội thánh phân rẽ hoặc bị giải thể, bỏ mặc các nhà truyền giáo bơ vơ.
Tuy nhiên, với những người được trợ giúp qua các mối tương quan cá nhân (ngay cả nếu các ngân quỹ được nối liền với hội thánh địa phương, như trong kế hoạch 30 ngày/30 người, nếu như một hậu thuẫn viên qua đời hoặc bị phá sản hoặc rút lui vì một lý do nào đó, thì nhà truyền giáo chỉ phải kiêng ăn một ngày trong một tháng cho đến khi anh ta thay thế được người hậu thuẫn đó! Nói nghiêm túc, phải tìm một người thay thế thì dễ hơn là mất tất cả hoặc mất đa số người cấp dưỡng cho mình. Nhưng điều quan trọng hơn hết là chúng ta hãy nghĩ đến những mối quan hệ bạn hữu phát triển qua việc “liên kết tấm lòng với mục đích” để chinh phục thế gian cho Chúa Cứu Thế.
Những Lợi Ích Của Việc Hội Truyền Giáo Cấp Dưỡng, Phương Pháp Của Chúa Jesus
Chúa Jesus được các bạn hữu Ngài cấp dưỡng, không phải bởi ngân quỹ của một tập thể, hoặc một tài khoản khách quan, mà chỉ là các bạn hữu. Không có gì là sai Kinh Thánh đối với những phương tiện khách quan để cấp dưỡng cho việc truyền giáo cả. Nhưng có nhiều lợi ích khi chúng ta có những con người trực tiếp hỗ trợ cho con người:
. Những người dâng tặng có được niềm vui vì được dự phần vào chức vụ của ai đó. Những mối liên kết của tấm lòng được hình thành giữa những con người với nhau chứ không phải giữa những cơ cấu tổ chức.
. Có khả năng tính toán trực tiếp giữa vị truyền giáo với những người hậu thuẫn cho ông ta hoặc bà ta.
. Người cho có được sự hiểu biết trực tiếp và thức thời về điều đang xảy ra trong các hội truyền giáo qua sự thông tin liên lạc đều đặn của người truyền giáo của mình.
. Sự ban cho gắn liền với tấm lòng không dễ bị ảnh hưởng bởi sự suy thoái hoặc các thời kỳ khó khăn.
. Nó tạo cho mỗi một nhà truyền giáo có cơ hội tìm được sự giúp đỡ mà người ấy đang cần, chứ không phải chỉ những người đang thực hiện chức vụ “được tán dương” hơn hoặc “thú vị” hơn.
Cố tiến sĩ Donal McGavran, một chuyên gia của các hội truyền giáo ở tại Thần Học Viện Fuller, kêu gọi các Cơ Đốc nhân hãy bắt đầu hàng ngàn ban truyền giáo nhỏ, có liên quan trực tiếp đến một hoặc hai nhà truyền giáo trên một nền tảng cá nhân. Lý do thật là rõ ràng, có nhiều bất tiện trong phương pháp giữ theo truyền thống là cách Hội thánh cấp dưỡng cho một danh sách các nhà truyền giáo. Thông thường, chẳng có ai trong Hội thánh thật sự biết rõ các nhà truyền giáo trên bảng danh sách. Đôi khi có đến 8 hoặc 10 năm kể từ khi một nhà truyền giáo đích thân đến thăm viếng nơi đó. Và bởi vì đó chỉ là một buổi nhóm của Hội thánh, các tín hữu không được quen biết nhà truyền giáo cách cá nhân. Và thường cũng không ai đọc các bức thư báo cáo của nhà truyền giáo, ngoại trừ vị thư ký vô cùng bận rộn của Hội thánh đọc thử bức thư, hoặc có thể vị chủ tịch truyền giáo. Những vị này có thể chỉ mới đến Hội thánh và có thể chưa hề gặp những người mà các bức thư của họ được gởi đến theo đường bưu điện.
Ngay cả những vị mục sư được cảm động hết sức muốn dẫn dắt tín hữu của mình dâng hiến cho các hội truyền giáo cũng thấy đó là một công tác khó khăn dưới hệ thống nầy. Một số tâm sự rằng họ phải làm ngạc nhiên hội chúng của họ bằng một vị diễn giả truyền giáo, hầu cho hội chúng sẽ không giữ một khoảng cách với một buổi nhóm “buồn tẻ” của các hội truyền giáo.
Một Cuộc Thử Nghiệm Của Người Na-uy
Một trong những kế hoạch mới mẻ nhất mà gần đây tôi được thấy đã bắt đầu bởi hội YWAM ở tại Nauy. Họ đã bắt đầu Ra Đi Trong Tình Anh Em, tức là các nhóm cấp dưỡng nhỏ được thành lập với mục đích cử các nhà truyền giáo ra đi. Một số đặc điểm của các nhóm nầy là:
. Mỗi một nhóm Ra Đi Trong Tình Anh Em được tổ chức như là một nhóm hậu thuẫn cho một nhà truyền giáo (họ có 28 nhóm như vậy sẵn sàng hoạt động trong những vùng khác nhau thuộc Nauy)
. Mỗi một nhóm Ra Đi Trong Tình Anh Em bao gồm những người thuộc ít nhất là hai Hội thánh khác nhau để tăng cường tối đa sự hợp tác trong Thân Thể Đấng Christ.
. Các nhóm nầy nhóm lại mỗi tuần một lần để cầu nguyện cho nhà truyền giáo của họ. Họ cũng đọc bức thư mà nhà truyền giáo gởi đến trong tuần đó, cùng các tin tức từ văn phòng YWAM quốc gia. Mỗi tháng một lần, họ xem một cuộn băng Video tường trình các công việc của các hội truyền giáo. Khải Tượng Toàn Cầu của hội YWAM (Global Perspective)
. Họ cầu nguyện cho nhóm người chưa được nghe đến tin lành mà nhà truyền giáo sắp sửa đi đến. Đôi khi họ bắt đầu một nhóm Ra Đi Trong Tình Anh Em để nhắm vào một nhóm đông người chưa nghe tin lành ngay cả trước khi tìm ra được một nhà truyền giáo để gởi đến cho nhóm người ấy.
. Họ có một người điều phối trọn thì giờ của các nhóm Ra Đi Trong Tình Anh Em tại văn phòng YWAM quốc gia Nauy. Công việc của người nầy là giữ cho các nhóm Ra Đi Trong Tình Anh Em lúc nào cũng có được các thông tin mới nhất về công cuộc truyền giáo thế giới.
Bạn có thể hình dung được tính năng động của các nhóm đó không? Họ hoạch định để gia tăng số lượng của các nhóm nầy mỗi năm cho đến khi họ có được 1.000 nhóm và 1.000 nhà truyền giáo mới vào cuối thập kỷ nầy. Tôi tin chắc rằng các vị mục sư địa phương sẽ khám phá ra những người thuộc các nhóm Ra Đi Trong Tình Anh Em nầy đã bùng cháy để đẩy mạnh các hội truyền giáo bằng nhiều cách tại các hội thánh địa phương của họ. Một số người dùng các kỳ nghỉ để đi thăm những nhà truyền giáo của họ. Nhiều người có lẽ cuối cùng chính họ sẽ trở thành các nhà truyền giáo.
Tự Do Phạm Lỗi Tự Do Vâng Lời Chúa
Một số người lãnh đạo sợ kiểu liên quan trực tiếp nầy do việc dâng hiến của những người trong các hội truyền giáo. Chắc chắn là có sự mất kiểm soát trên việc dâng hiến của các thành viên trong Hội thánh. Tuy nhiên, mất kiểm soát là một phần của lòng rộng rãi. Hễ khi nào bạn rộng rãi và ban cho, thì bạn mất sự kiểm soát.
Đó cũng là sự thử thách tương tự mà tôi đã đối diện khi Chúa dẫn dắt chúng tôi thành lập một tổ chức truyền giáo mà không có một người nào được trả lương. Chúng tôi không gây quỹ để bỏ vào một khoản tài trợ tập trung cho việc trả lương các nhân sự, vì vậy chúng tôi không có quyền đủ để thuê hoặc sa thải các công tác viên.
Tôi thường phải cho phép hàng ngàn các nhà truyền giáo trọn thì giờ của chúng tôi khắp thế giới được tự do tối đa. Điều đó cho phép họ có sự tự do nhiều hơn để tìm kiếm Chúa, để nhận sự chỉ dẫn của Ngài, ra đi và vâng lời Ngài theo khả năng tốt nhất của họ. Họ có thường phạm lỗi không? Chắc chắn là có. Nhưng cũng thường có một hệ thống kiểm tra và cân đối tự nhiên, chẳng hạn những người có ý tưởng mới mẻ có thể đem những tư tưởng ấy ra thử nghiệm xem thử đây có phải là sự dẫn dắt của Chúa hay đó chỉ là ý tưởng ngông cuồng của lòng nhiệt thành tuổi trẻ.
Những người lãnh đạo thuộc linh phải thận trọng để đừng kiềm chế và sai khiến các tôi tớ của Chúa được Thánh Linh dắt dẫn, là người được mua bằng huyết trong vườn nho của Ngài. Chúng ta, những Cơ Đốc nhân là những tôi tớ, cần phải ban cho với đôi bàn tay rộng mở. Chúng ta không bao giờ được tìm cách ban cho mà còn kiểm soát chặt chẽ. Sự ban cho bị kiểm soát chặt chẽ quá sẽ làm nghẹt ngòi tính chủ động, và cuối cùng thậm chí có thể đặt chúng ta vào cùng một hạng với vua Tyrơ. Phương pháp của Satan là kiểm soát người ta qua tiền bạc.
Mới đây, một nhà doanh nghiệp đề nghị thu xếp số còn lại trong ngân sách để dâng cho một công việc Chúa có nhu cầu ở tại Ấn độ, làm như vậy ông sẽ được đa số ủng hộ trong cuộc bầu cử vào ban chấp hành của họ.
Đó không phải là sự rộng rãi theo Kinh Thánh hay là tấm lòng ban cho của người tôi tớ.
Vậy trách nhiệm quản lý đúng đắn trong lĩnh vực tài chánh của các ban chấp hành truyền giáo nhỏ sẽ thế nào? Có thể được giải quyết bằng cách để một Hội thánh địa phương giúp đỡ ban chấp hành nhỏ của hội truyền giáo bằng việc nêu lên những số họ thu nhận, và yêu cầu nhà truyền giáo phát biểu vấn đề chi tiêu mỗi cuối năm. Hội thánh có thể e ngại thực hiện công việc này, vì nghĩ rằng việc đó sẽ làm yếu đi nền tài trợ chính của nó. Tuy nhiên, trong hơn ba mươi năm, tôi vẫn thường thấy Hội thánh nào có lòng cởi mở đối với việc dâng hiến của những tín hữu đến bất cứ nơi nào Chúa dẫn dắt thì các nhu cầu của họ được thỏa đáp cách dư dật. Đây là một sự mở rộng liên hiệp của lẽ thật cho và nhận theo Kinh Thánh (LuLc 6:38)
Khi cá nhân cấp dưỡng cho các cá nhân, thì các Hội thánh thực hiện loại ban cho phù hợp nhất, tức là việc ban cho trong những đề án lớn với sự bắt đầu và kết thúc rõ ràng.
Những Nguyên Tắc Của Kinh Thánh Đối Với Việc Gây Quỹ
Kinh Thánh dạy dỗ nhiều nguyên tắc liên quan đến việc gây quỹ và cấp dưỡng cho hội truyền giáo, thậm chí dành cả một chương cho vấn đề này 1 .
Một mặt, Kinh Thánh dạy người hầu việc Chúa trọn thì giờ phải coi các tặng phẩm từ nơi hội chúng như là đã được dâng cho Chúa, cũng như những của dâng được dâng cho người Lêvi trong Cựu ước đã được nên thánh (LeLv 22:1-33). Vì vậy, mỗi một công tác viên trọn thì giờ phải nhận các của dâng với sự cẩn trọng và lòng kính sợ Chúa. Người ấy không bao giờ được xem thường việc người ta đã hy sinh để dâng cho mình.
Một nguyên tắc khác chúng ta học được từ Kinh Thánh nữa là bất cứ ai quản lý tiền bạc mà dân sự đã dâng vào công việc Chúa phải có trách nhiệm quản lý số tiền ấy. Khi Phao Lô cử Timôthê trên một chuyến đi gây quỹ cho các thánh đồ nghèo, ông cũng gởi kèm theo một người anh em vô danh, là người đã được chứng tốt và chuyên tâm để giúp việc quản lý. Khi Phao Lô bảo “Chúng tôi nhờ đó tránh khỏi tiếng trách móc về sự dùng tiền góp nhiều như vậy vì chúng tôi tìm điều lành, chẳng những ở trước mặt Chúa, mà cũng ở trước mặt người ta nữa” (IICo 2Cr 8:20-21). Hãy lưu ý, đứng trước mặt Đức Chúa Trời không thôi thì chưa đủ, mà còn phải đứng theo cái nhìn của công chúng nữa.
Có một số nhóm vội vã không tôn trọng ý định của các tặng phẩm đã được nêu rõ, họ không giao đúng toàn bộ của dâng cho một dự án hoặc cho người mà món quà đã được chỉ định. Như vậy không những trái với đạo lý mà trong nhiều quốc gia là nghịch với pháp luật. Bào chữa, và chuyển các tặng phẩm đến chỗ mà chúng ta thấy cần hơn là việc làm không phải lẽ. Nếu như có sự thay đổi hoàn cảnh, chúng ta cần phải liên hệ với người cho và hỏi người ấy xem phải làm gì với món quà đó. Nhưng chúng ta phải luôn luôn tôn trọng những ý định của họ một cách nghiêm túc, hãy giao tiền bạc đến đúng chỗ mà người cho muốn tiền của họ được sử dụng.
Các Mạng Lưới Cầu Nguyện Và Phụ Thuộc Lẫn Nhau
Khi dân sự dâng hiến theo như Chúa dẫn dắt lòng họ, thì chúng ta sẽ thấy sự dư dật trong công việc của Ngài. Điểm then chốt đối với Đức Chúa Trời không phải là tiền bạc, mà là các mối tương quan. Ngài sẽ dùng những sự cộng tác trong việc dâng hiến để xây dựng một mạng lưới cầu nguyện, và làm vững mạnh tính phụ thuộc lẫn nhau giữa vòng các con cái của Ngài. Khi chúng ta ban cho, của cải chúng ta sẽ có một phần nằm nơi nhân sự nầy và một phần nằm nơi một nhân sự kia, một ít nằm ở một xứ nào đó và một số khác nằm ở một miền đất khác. Tầm nhìn và sự cảm nhận của chúng ta về niềm phấn khởi được dự phần vào công việc Đức Chúa Trời đang thực hiện khắp nơi trên thế giới sẽ càng tăng thêm. Chúng ta đã có một cổ phần trong đó.
Thật lạ lùng và kỳ diệu khi nhìn xem hệ thống kinh tế của Đức Chúa Trời vận hành. Trong Hội Thanh Niên Sứ Mạng, có nhiều việc ban cho nhằm đáp ứng các nhu cầu của người khác. Khi tôi để ý cùng một số tiền ấy được trao đổi từ tay người nầy sang người khác, tôi đã phải sửng sốt vì thấy Đức Chúa Trời hành động thật quá nhiều. Đó là cách đã xảy ra tại Hilo, thuộc Hawaii trong một vài năm về trước.
Là những người đứng đầu của một trường huấn luyện các nhà truyền giáo tại Hilo, chúng tôi bắt đầu lo ngại vì tổng số học phí chưa thanh toán đang tăng lên. Chúng tôi, những người lãnh đạo nhóm nhau lại để cầu hỏi Chúa xem điều Ngài đang muốn phán với chúng tôi trong tình huống nầy là gì.
Một ý tưởng đến với tâm trí tôi là hãy đọc IICôrinhtô đoạn 8, tôi biết đoạn Kinh Thánh đó nói về việc giúp đỡ nhu cầu của các thánh đồ, nhưng khi tôi bắt đầu đọc thì câu 14 và 15 lại đập vào mắt tôi.
“Theo cảnh bây giờ, anh em có dư thì bù cho họ lúc túng thiếu, hầu cho họ có dư cũng bù lại lúc túng thiếu cho anh em, như vậy là bằng nhau, theo lời chép rằng: Kẻ đã thâu nhiều cũng chẳng dư, kẻ thâu ít cũng chẳng thiếu chi “.
Tôi nhớ những lời lẽ của một nhà truyền đạo cao tuổi. Ông nói rằng trong mọi tập thể Đức Chúa Trời đều đã đặt một số lượng tiền cần thiết cho bất cứ nhu cầu nào mà Ngài dẫn dắt tập thể ấy thực hiện. Và bây giờ dường như Chúa đang phán với chúng tôi rằng chúng tôi phải đáp ứng cho nhu cầu của các học viên nầy, với số lượng hàng ngàn Mỹ kim học phí chưa được trả, giữa vòng 150 nhân sự và học viên của chúng tôi.
Chúng tôi nhóm các học viên cùng các nhân sự lại và nói lên điều cảm nhận được từ nơi Chúa. Trước hết, tôi mời những người có các biên lai học phí chưa thanh toán đứng lên và nói cụ thể số tiền họ cần. Sau đó, tôi mời cả nhóm cầu nguyện theo từng cá nhân, hoặc theo từng cặp vợ chồng, để cầu hỏi Chúa họ có phải dâng giúp không, nếu có thì số tiền đó là bao nhiêu và ai là người họ cần phải cho.
Darlene vợ tôi và tôi cùng thầm nguyện bên cạnh nhau. Sau một vài phút, tôi khẽ hỏi “Em nhận được sự chỉ dẫn nào, Dar?”
Nàng nói “Em cảm thấy Chúa muốn chúng ta phải dâng 100 Mỹ kim cho Tom Hallas”
“Nhưng em yêu, chúng ta phải cầu nguyện cho nhu cầu của các học viên cơ mà”, tôi tỏ rõ “còn Tom Hallas là nhân sự”. Dẫu không nói ra nhưng ý của tôi đã rõ: Điều em nhận là sai rồi, chắc hẳn đó không phải là điều Chúa phán. Đoạn tôi cho nàng biết rằng tôi đã nhận được một sự chỉ dẫn rõ ràng hãy tặng 50 Mỹ kim cho một học viên. Tôi không thể nói từng chữ cho nàng biết rằng “Chúng ta hiện có chưa đến 100 Mỹ kim trong ngân quỹ, Dar à. Mà chúng ta chỉ có khoảng hơn 50 Mỹ kim thôi”
Mọi người vẫn cúi đầu cầu nguyện. Một vài người đang di chuyển giữa nhóm người, tiền đang được trao vào những đôi tay, người ta đang ôm siết nhau và đang cười hoặc khóc khe khẽ.
“Thôi được, anh Loren à”, Dar nói “Có lẽ đây chỉ là việc giữa em và Chúa. Có lẽ em phải tin cậy Chúa để tự mình lo liệu cho có được 100 Mỹ kim và trao cho Tom”.
Đoạn tôi nhận ra có lẽ mình sắp sửa bỏ lỡ một điều gì đó. Chúng tôi quyết định mỗi người đến riêng với Chúa, nhưng lần này với điều suy nghĩ của người kia. Tôi sẽ hỏi Chúa chúng tôi có phải dâng 100 Mỹ kim cho Tom hay không, còn Dar hỏi Ngài chúng tôi có phải dâng 50 Mỹ kim cho một học viên nọ không. Tôi thật ngạc nhiên vì mỗi chúng tôi đều cảm nhận thật chắc chắn rằng cả hai ý tưởng đó đều đến từ Chúa. Đôi khi, người ta có thể có những sự dẫn dắt khác nhau từ nơi Đức Chúa Trời và đã quên mất điều này: Đức Chúa Trời không bảo hoặc điều này, hoặc điều kia, song Ngài phán cả hai đều đúng.
Tôi viết một ngân phiếu 50 Mỹ kim và trao cho học viên có tên Chúa đã dẫn dắt tôi. Đoạn tôi quay về chỗ ngồi và chúng tôi chờ đợi để thấy điều Ngài sẽ làm. Vì chúng tôi không thể dâng số 100 mà mình không có.
Ngay lúc ấy, Tom Hallas bước đến, gương mặt anh lộ vẻ thắc mắc. Anh bước đến gần tôi và nói thật nhỏ để không quấy rầy những người khác vẫn còn đang cầu nguyện và tìm kiếm tiếng phán của Chúa.
“Diane và tôi”, anh bắt đầu nói, ra dấu trỏ về hướng vợ anh “Ơ…chúng tôi đang cầu nguyện và chúng tôi nghĩ Chúa bảo chúng tôi hãy dâng 100 Mỹ kim cho một học viên. Anh gãi gãi sau tai mình, nhướng mắt với vẻ nghĩ ngợi “Nhưng chúng tôi không có đồng nào cả. Anh Loren nầy, anh có nghĩ rằng Chúa sẽ làm điều đó không?”
Tôi cười “Phải, tôi thật sự nghĩ rằng Chúa sẽ làm điều đó! Thật ra, Chúa đã bảo Dar và tôi hãy dâng 100 cho anh và chúng tôi cũng không có số tiền đó. Chúng ta hãy đợi một phút xem điều Ngài làm”.
“Tốt” Tom rùn vai “Ít ra tôi cũng cảm thấy dễ chịu hơn”. Anh quay về chỗ và ngồi xuống.
Kế đó, một nhân sự tên là Debbie Smith tiến đến chỗ tôi và Dar. Cô ta cũng mang một vẻ mặt ngơ ngác giống như vậy “Loren này, Chúa bảo tôi hãy dâng cho anh 100 nhưng không phải để cho anh”. Trông cô ta thật bối rối “Liệu Ngài có làm điều đó không?”
“Chắc chắn Ngài sẽ làm đấy, cô Debbie à. Hãy đứng đây nhé, đừng đi đâu”. Tôi gọi Tom và Diane đến. Đoạn tôi nói với Debbie “Hãy cho tôi 100”. Cô ta đặt nó vào tay tôi. Tôi chuyển nó cho Tom, với Darlene đứng bên cạnh tôi “Tom, Chúa đã bảo chúng tôi giao 100 nầy cho anh”. Anh ta cầm lấy và cười thành tiếng, rồi quay đi để tìm người học viên mà Chúa đã dẫn dắt anh hãy cho.
Tôi lắc đầu trong sự sửng sốt. Tại sao Chúa không bảo Dibbie trao thẳng cho học viên kia? Tại sao Ngài lôi cả Dar và tôi, Tom và Diane, và cả Dibbie vào? Tôi nghĩ là Ngài cho chúng tôi có thể nhìn thấy một quy mô nhỏ về nguyên tắc phân phối của Đức Chúa Trời vận hành trên khắp thế giới. Cùng số tiền đó, AgKg 2:8 chép rằng hết thảy đều thuộc về Chúa dưới bất cứ hình thức nào, chuyển từ tay này sang tay khác, đáp ứng các nhu cầu, và cho phép tất cả chúng ta được dự phần vào phép lạ của sự cung ứng, củng cố sự hiệp nhất và thách thức chúng ta trong sự vâng lời.
Thân thể của Đấng Christ đã có đủ số tiền cần thiết cho mọi công việc của Ngài. Tiến sĩ David Barrett chủ bút của bộ “World Christian Encyclopedia” (Bách khoa về Thế Giới Cơ Đốc) từng nói rằng hai phần ba của cải thế giới nầy nằm dưới quyền sở hữu và kiểm soát của các Cơ Đốc nhân2. Chúng ta không cần phải có thêm tiền cho Thân Thể của Đấng Christ, mà cần để cho tiền bạc được lưu xuất dễ dàng hơn. Khi chúng ta ban cho người khác, giữa cá nhân với cá nhân, giữa hội thánh với hội thánh, qua các hệ thống quốc gia và giáo phái, thì thân thể của Đấng Christ sẽ được kéo lại gần nhau hơn và gần với Chúa hơn.
Ghi chú : Chương 8
1. Xem ICôrinhtô 9 và IICôrinhtô đoạn 8 và 9
2. Quyển “Our Globe and How To Reach It” (Địa Cầu Của Chúng Ta và Cách Đạt Đến Nó) của David Barrett và Todd M.Johnson, 1990, New Hope, Birmingham, Al, trang 25

SỐNG BỞI ĐỨC TIN TRONG GIỚI NHỮNG NGƯỜI LÀM VIỆC TỪ 9g SÁNG – 5g CHIỀU
Đã từ lâu trong lịch sử Giáo hội Cơ Đốc, một ý tưởng đã ăn sâu gây ra sự tai hại lớn. Đó là như vầy. Có một tầng lớp thế tục và một tầng lớp được biệt ra thánh. Một số người thuộc hàng giáo phẩm và giữ chức vụ trọn thì giờ. Đó là giới Thánh. Số người kia sống và làm việc trong “thế giới thực tế”. Họ có những công việc thế tục. Nhưng họ có thể dự phần vào công việc Chúa bằng cách hậu thuẫn cho những người giữ chức vụ hầu việc trọn thì giờ.
Có thể bạn không hề nghĩ đến việc điều đó đã ảnh hưởng sâu sắc thế nào đến quan điểm của bạn trong công việc hàng ngày. Cũng như nhiều Cơ Đốc nhân khác, có lẽ bạn xem công việc của mình, may lắm là trung tính trong giới hạn thuộc linh. Hoặc tệ lắm thì đó cũng là một công việc khá bẩn thiểu, song công việc nào thì dầu sao bạn cũng phải làm. Bạn đến nhà thờ vào ngày Chúa nhật, hoặc có thể vào giữa tuần để có được một bữa tắm táp thuộc linh trước khi lại lao vào bãi bùn của chợ đời.
Những câu chuyện về sự đắc thắng lớn lao trong lãnh vực thuộc linh và các phép lạ, cũng như sự cung ứng về mặt tài chánh vẫn thường xảy ra, song luôn luôn là ở một khía cạnh khác (trên lãnh vực truyền giáo) hoặc với những người trong các chức vụ hầu việc trọn thì giờ. Hoặc có thể những điều đó chỉ xảy ra cho ai đó trong công việc thế tục nếu người ấy dành thì giờ để làm công việc gì đó thánh khiết, như làm chung với một người bạn cùng làm việc. Rồi sau đó người ấy đóng cái ngăn thánh ấy lại và bước trở lại vào chốn thế tục, nơi mà những việc thuộc linh không hề xảy ra.
Đó có phải là một thực tế không? Tôi không tin như vậy. Các phép lạ có thể xảy ra ngay trong lãnh vực truyền giáo thuộc công việc thường xuyên của bạn. Đức Chúa Trời đang nóng lòng muốn dự phần vào và giúp bạn trong việc thực hiện công việc của bạn. Nhưng trước hết bạn cần phải thấy quan điểm của Ngài đối với công việc của bạn.
Nếu bạn yêu mến Chúa Jesus và đang hầu việc Ngài trong chỗ Ngài kêu gọi bạn và theo cách mà Ngài muốn, bạn có thể sống bởi đức tin và thấy được những chiến thắng thuộc linh trong một phân xưởng, trong văn phòng luật sư, hoặc trong một cửa hàng. Như tôi đã đề cập trong một chương trước, chữ “Nhà Truyền Giáo” chỉ có nghĩa là “người được sai đi” và Chúa Jesus đã nói với tất cả những người theo Ngài rằng “Như Cha đã sai Ta thể nào, Ta cũng sai các ngươi thể ấy” (GiGa 20:21)
Câu hỏi duy nhất còn lại là câu hỏi về nơi chốn và loại công việc. Bạn đã bắt đầu chức nghiệp hay công việc mà bạn đang làm như thế nào. Bạn đã có cầu hỏi Chúa bày tỏ khải tượng của Ngài cho đời sống bạn không? Hay là cũng như nhiều Cơ Đốc nhân, bạn có quyết định rằng bởi vì bạn đã không được kêu gọi vào sự hầu việc trọn thì giờ, cho nên đây là quyết định mà chính bạn đã chọn lấy?
Nhiều người buông mình vào các công việc làm ăn để rồi tự mình khám phá những năm bất hạnh sau đó và chẳng bao giờ được thỏa lòng. Thay vì công việc của họ được hoàn thành và vui mừng như Chúa định cho họ (PhuDnl 12:18), nó chỉ là một cái gì đó để cho có bánh ăn.
Đức Chúa Trời có một sự kêu gọi cho mỗi một Cơ Đốc nhân. Hết thảy chúng ta đều phải làm mọi sự vì vinh hiển của Đức Chúa Trời. Ngài không chia sự kêu gọi ra làm hai loại, thánh và phàm. Mà chính chúng ta đã phân biệt ra như vậy. Ngài có một công việc cần phải làm, và Ngài muốn hết thảy chúng ta đều dự phần. Công việc của Ngài là mở rộng quyền cai trị của Chúa Cứu Thế Jesus trong mọi bộ phận xã hội và để đem tin lành của Ngài đến với mọi người trên hành tinh này. Là Chủ của Mùa Gặt, Ngài sẽ cho chúng ta biết chúng ta phải hoạt động ở phần cánh đồng nào.
Hãy Biết Rõ Sự Kêu Gọi Của Bạn
Bạn có một sự kêu gọi chưa? Một ý thức về vận mệnh? Một ý thức khái quát về sứ mạng dành cho đời sống của bạn? Nếu chưa, bạn có thể tìm biết nó. Dĩ nhiên, điều đó đòi hỏi bạn phải từ bỏ những quyền lợi của tình trạng hiện nay của bạn. Có thể Đức Chúa Trời muốn cảm động bạn và gia đình bạn đi nửa vòng trái đất. Có thể Ngài muốn bạn làm một điều gì đó khác với việc bạn hiện đang làm. Hoặc trái lại, Ngài muốn bạn ở nguyên vị trí của mình. Cách duy nhất để được Chủ Mùa Gặt dẫn dắt là phải giao nộp sự quyết định cho Ngài.
Một khi bạn biết mình đã ở đúng vị trí – vị trí mà Đức Chúa Trời chọn – để làm điều Ngài kêu gọi bạn làm, thì bạn hãy hành động như một nhà truyền giáo hành động trong chỗ đó.
Người được sai đi (hoặc nhà truyền giáo), hành động như thế nào? Nếu muốn được hữu hiệu, người ấy sẽ tìm kiếm Chúa trong những điều cụ thể để biết cách thực hiện công tác của mình. Người ấy cầu nguyện và lắng nghe những sự thúc giục của Chúa ở bên trong tấm lòng mình và hành động theo đó. Khi công việc có vẻ bất khả thi, mặc dầu người ấy đã làm điều Chúa bảo mình làm thì người ấy có thể tin cậy Chúa sẽ thực hiện điều người ấy không làm được. Điều đó trở lại sự định nghĩa của chúng ta trong chương hai. Đức tin là nghe được tiếng Chúa, biến điều đó thành hành động và tin cậy Ngài trong bất cứ điều gì bạn không thể làm. Loại đức tin đó vẫn hoạt động hoặc bạn đang làm việc trong một dây chuyền lắp ráp ở một phân xưởng hay đang giảng tin lành cho một bộ lạc chưa được nghe về Chúa ở tận vùng Amazon.
Có nhiều Cơ Đốc nhân không chịu làm bất cứ công việc gì mà họ cho là không thuộc linh, như dạy một bài học Trường Chúa Nhật mà không cầu nguyện. Song cũng chính những con người đó lại không cân nhắc việc cầu nguyện trong một công việc thế tục nào đó – như việc cầu hỏi ý Chúa về các mục tiêu của việc tiếp thị cần phải đặt ra là gì, cách xử sự trong các mối quan hệ với những bạn bè đồng nghiệp, cách để làm cho một hệ thống làm việc nào đó tốt hơn, hoặc làm thế nào để giải quyết một vấn đề của máy vi tính.
Hai nhà khoa học, Rob Gerhart và Tiến sĩ Wil Turner, cũng đang làm việc để triển khai một thiết bị điều khiển vi tính mới như là một đề án dành cho trường đại học của hội YWAM của các quốc gia (U of N). Khi đã bước vào công việc, họ chạm trán với một nan đề trong hệ thống vi tính làm họ phải bị kẹt cứng trong vài ngày. Bao nhiêu giúp đỡ qua điện thoại của hãng sản xuất hoặc các thử nghiệm có phương pháp về phần họ đều không tìm ra vấn đề. Nó vẫn không hoạt động theo cách đáng phải có.
Bởi vì đang phải đối diện với thời điểm cuối cùng khẩn cấp, nên họ bắt đầu làm việc vào ban đêm…nhiều khi đến tảng sáng. Một buổi tối nọ, họ tạm dừng để nghỉ ngơi đôi chút. Lúc đó vào khoảng hai giờ sáng và hai người bước ra ngoài trời đêm ấm áp ở xứ Hawaii, vươn vai và thả lỏng các bắp thịt.
Rod ngước nhìn vòm trời sao sáng rực được viền khung bởi những cây cọ lay động nhè nhẹ. Ôi, lạy Chúa, Ngài biết rõ câu giải đáp của vấn đề này. Xin Ngài hãy giúp chúng con, anh cầu nguyện thầm. Ngay lúc ấy nguyên nhân…và cách giải quyết hiện ra trong đầu Rod. Anh la lên cho Wil “Tôi biết vấn đề nằm ở đâu rồi! lại đây!”. Hai người thanh niên chạy thẳng về phòng thí nghiệm và bắt đầu làm việc theo ý tưởng Rod vừa thấy. Lập tức chương trình hiện lên và bắt đầu chạy. Sau một lúc, tuy mệt mỏi nhưng rất phấn khởi, hai nhà khoa học khóa cửa phòng và đi thẳng về nhà nghỉ ngơi.
Rod thừa nhận rằng những người hoài nghi có thể bảo ý tưởng cuối cùng đã đến với anh ta, cũng như nó đã đến với một nhà khoa học vô thần đang vật lộn với một vấn đề nan giải. Có thể Robert Schuller đã đúng khi ông nói rằng mọi ý tưởng sáng tạo đều đến từ Đức Chúa Trời, bất chấp đức tin của người nhận những ý tưởng đó. Nhưng Rod và Wil thì biết chắc rằng buổi tối hôm đó Đức Chúa Trời đã bày tỏ cho họ câu trả lời.
Không phải mọi lời cầu xin của chúng ta đều được hướng vào Đức Chúa Trời. Đôi khi kẻ thù của linh hồn chúng ta là Satan cũng có liên hệ vào. Nhiều khi chúng ta cần phải gọi đích danh hắn trong trận chiến thuộc linh, ra lệnh cho hắn chấm dứt bất cứ hành động gì mà hắn đang khuấy động. Có thể là một sự khó khăn ở nơi làm việc hoặc với một người đồng công không phải chỉ là một việc tự nhiên từ lúc đầu.
Chúng ta không nên tìm kiếm sự hoạt động có tính cách ma quỷ trong mọi việc, nhưng chúng ta phải nhận biết rằng ma quỷ có thể đang hoạt động. Chúng ta có thể xử lý hắn cách đơn giản và nhanh chóng bằng cách sử dụng uy quyền mà Chúa Jesus đã ban cho chúng ta trên hắn (Gia Gc 4:7; IPhi 1Pr 5:8-9). Nếu chúng ta đã đầu phục Chúa và đang làm điều Ngài kêu gọi chúng ta làm, thì Ngài có trách nhiệm đối với sự thành công của chúng ta.
Tinh thần ưa thích về các công việc làm ăn có tính cách mạo hiểm có nhiều và rất mạnh mẽ ở trong con trai tôi là David, mặc dầu nó còn học cao đẳng. Trong tuổi thiếu niên, David đã khởi sự hai công việc kinh doanh nhỏ: đó là việc lên chi tiết xe ô tô tự chế tạo và “Những Sản Phẩm Video của David và David”, David là người chung phần với một sinh viên làm phim khác tên là David Tokios.
Khi họ bắt đầu làm việc với nhau, hai cậu David nầy cam kết để cầu nguyện với nhau trước bất cứ một cuộc quay hoặc việc sắp xếp số liệu trên máy tính nào. Họ dâng công việc của mình cho Chúa và từ chối bất cứ hoạt động nào của kẻ thù. Và mỗi ngày, công việc của họ diễn tiến cách êm đẹp. Trừ một ngày.
Hôm đó trong lúc bề bộn công việc để sản xuất một bộ phim, họ đã quên cầu nguyện. Họ vội vàng quá đến nỗi lao thẳng vào công việc. Đó là ngày mà mọi thứ đều trục trặc, mọi thứ đều có thể trục trặc với một hệ thống biên tập đã sai trật. Nan đề càng nảy sinh, thì họ càng trở nên buồn bực, đầu tiên là với các thiết bị, rồi sau đó là với nhau. Thình lình họ nhận ra cái gì đã sai trật. Họ dừng lại và cầu nguyện, tạm nghỉ chốc lát, rồi trở lại làm việc, khó khăn được giải quyết êm thắm, và họ đã có thể hoàn tất đề án cách thành công.
Đức Chúa Trời có thật sự quan tâm không nếu như một đề án video thành công? Kẻ thù có quan tâm không. Cả hai bên đều có liên quan nếu chúng ta dâng công việc cho Đức Chúa Trời. Khi ấy công việc sẽ trở thành của Ngài và Đức Chúa Trời sẽ chăm sóc công việc của Ngài. Và bởi vì kẻ thù hoạt động chống lại Đức Chúa Trời và dân sự Ngài, nên nó cũng ở chỗ làm việc, tìm cách phá hoại.
Về sau, David con trai tôi cảm biết cậu phải dành thì giờ của công việc kinh doanh nầy và ở trường cao đẳng để phục vụ hai trường học thuộc Đại học liên Quốc gia của YWAM – Một Trường Nghiên Cứu Kinh Thánh ở tại Honolulu và một Trường Huấn Luyện Lãnh Đạo ở tại Chile. Điều đó có vẻ không khôn ngoan lắm trong công việc kinh doanh, bởi vì David và hãng sản xuất Video của David vừa mới rút một khoản vay lớn. Nhưng họ đã vâng lời Chúa và tin cậy Ngài trong sáu tháng gián đoạn. David Tokios phải quản lý khối lượng công việc gấp đôi, và trong suốt sáu tháng đó, Đức Chúa Trời đã ban phước cho công việc kinh doanh gấp mười lần.
Cam Kết Chính Mình Với Sự Tuyệt Hảo
Nếu điều thứ nhất mà những nhà kinh doanh Cơ Đốc phải biết đó là họ là những nhà truyền giáo và họ cần có một sự kêu gọi, thì điều thứ hai phải nhận ra đó là Đức Thánh Linh được đưa vào trong sự kêu gọi đó để công việc của họ được vượt trội.
Một người bạn của tôi, David Aikman, là phóng viên lâu năm của tạp chí Time. Ông đứng đầu tòa soạn của tạp chí Time ở Beijing, Bá linh và Giêrusalem. Chính David là người tin rằng một bước ngoặc đã đến với những Cơ Đốc nhân ở tại Hoa kỳ sau cái gọi là Cuộc Thử Nghiệm Loài Khỉ của Scopes vào năm 1925.
Có lẽ bạn đã đọc về cuộc thử nghiệm mang tính lịch sử nầy giữa tiểu bang Tennessee, là tiểu bang đã ban hành một điều luật cấm việc giảng dạy thuyết tiến hóa vô thần ở tại các trường học của tiểu bang và Jerome Scopes, một giáo sư đã chống lại luật cấm đó bằng cách cứ giảng dạy thuyết tiến hóa.
Các Cơ Đốc nhân đều hết sức quan tâm đến cuộc xét xử nầy và ngồi chật phòng xử mỗi ngày. Bất hạnh thay, trong cuộc chiến pháp lý nóng bỏng và sự sôi nổi của những người giả chuồng chiên gây rối, những lời phát biểu của các Cơ Đốc nhân nghe có vẻ dại dột. Những người theo thuyết tiến hóa đã giành được phần thắng trong phiên toà. Nhưng điều tệ hơn nữa đó là những bài tường thuật trên những phương tiện thông tin đại chúng đã phết lên những Cơ Đốc nhân đặt niềm tin nơi Kinh Thánh như là những con người ngu dốt – không được học hành chống lại những tư tưởng mang tính “khoa học”
Theo David Aikman – việc đó, kèm với những sự thay đổi về lối suy nghĩ trong những trường đại học và các chủng viện trong khoảng cuối thế kỷ trước đầu thế kỷ nầy, đã đẩy các Cơ Đốc nhân vào thế bị tiến công. Cho đến thời điểm đó, các Cơ Đốc nhân đã nắm giữ những vị trí gây ảnh hưởng trong nền giáo dục của chính phủ, trong việc kinh doanh và trong lãnh vực nghệ thuật. Nhưng về sau nầy, theo Aikman, nhiều Cơ Đốc nhân đã hoàn toàn rút lui khỏi cuộc đua. Chúng ta bắt đầu chấp nhận tính tầm thường. Chúng ta trở nên nghi ngờ sự giáo dục và tự xem mình như những người thấp kém hơn.
Như thế có phải là nói quá không? Điều gì sẽ xảy ra nếu con gái bạn đến và nói với bạn rằng con cảm thấy Chúa muốn con ở trong lãnh vực truyền thông. Liệu bạn có thể xem em như là người chủ chốt trong một mạng lưới truyền hình hoặc làm việc như một chủ bút của một tờ báo được không? Hay là bạn cứ theo tập quán, thói quen mà khuyên em hãy tìm một việc làm trong lãnh vực truyền thông Cơ Đốc?
Hay là bạn có thường hay nói những điều tương tự thế nầy không “Phải, bởi vì một cuốn tiểu thuyết Cơ Đốc (hoặc một bộ phim Cơ Đốc) thì mới thật sự là tốt”.
Điều đó không hạ thấp các lãnh vực truyền thông Cơ Đốc, song nhiều thanh niên theo tập quán cứ tìm những công việc trong môi trường an toàn, một cách vô ý thức tránh né sự cạnh tranh khắc nghiệt trong thế gian.
Tôi đồng ý với bạn tôi, ông David Aikman. Chúng ta cần phải lấy lại vị trí lãnh đạo mà chúng ta vẫn thường từ bỏ. Nếu chúng ta sống trong một “khu ổ chuột Cơ Đốc”, thì có thể chúng ta phải giúp xây dựng các bức tường. Điều đó đòi hỏi gian khó và sự hy sinh, nhưng các Cơ Đốc nhân phải tiến bước trong bất cứ lãnh vực nào mà Chúa kêu gọi họ vào. Bất cứ khi nào chúng ta chuyên tâm vào những ân tứ mà Ngài ban cho chúng ta, Đức Chúa Trời sẽ trợ giúp phần của Ngài vào những cố gắng của chúng ta. Đó là điều EsIs 48:17 muốn nói khi Ngài phán rằng “Ta là Đức Giêhôva, Đức Chúa Trời ngươi, là Đấng dạy cho ngươi được ích…”
Tính Trung Thực
Có nhiều nguyên tắc của Kinh Thánh thể hiện ngay trong lãnh vực buôn bán. Một trong những nguyên tắc quan trọng nhất là tính ngay thẳng. Lời Chúa phán rằng Ngài ghét chiếc cân giả dối (ChCn 11:1). Cân là đồ nghề của những người buôn bán. Một Cơ Đốc nhân đi trong sự ngay thẳng, sẽ để lại một ấn tượng không những cho việc kinh doanh của người ấy mà còn cho cả Đức Chúa Trời mà người ấy hầu việc. Chính cách người ấy thực hiện công việc và hoàn thành các nhiệm vụ của mình cũng như chất lượng sản phẩm của người ấy, sẽ gây được một ảnh hưởng trong cộng đồng. Người ấy sẽ là một nguồn phước.
Nguyên Tắc Tăng Bội
Đức Chúa Trời sẽ làm cho tăng trưởng tất cả các nổ lực lành mạnh. Đó là nguyên tắc của Kinh Thánh về sự tăng bội trong công việc. Sự tăng trưởng là kết quả tự nhiên của việc đi theo Chúa Jesus và sử dụng các ân tứ Ngài ban cho chúng ta với tấm lòng ngay thẳng.
Trong Sáng thế ký đoạn 1. Đức Chúa Trời phán rằng mỗi loài đều phải kết quả và tăng bội “tùy theo loại”. Đấy là điểm then chốt: Sẽ là điều tai hại hay phước hạnh nếu như nổ lực của bạn được tăng bội “tùy theo loại”? Một số người đang tăng bội sự rối rắm. Nhưng nếu bạn đặt nền tảng công việc kinh doanh của mình trên Lời Chúa – nếu nó mang động cơ và các phương pháp Cơ Đốc đó có thể là một khuôn mẫu cần lặp lại ở khắp nơi trên thế giới, để đem phước hạnh đến cho nhiều người. Và động cơ Cơ Đốc cho việc kinh doanh là như thế nào? Trung tâm của mỗi một công việc làm ăn đều phải có những con người yêu mến Chúa hết lòng, những người muốn làm sáng danh Chúa Cứu Thế và muốn phục vụ nhân loại bằng cách nào đó.
Phục Vụ Đức Chúa Trời Và Con Người
Một sự cân nhắc quan trọng khác nữa để thành công là nguyên tắc của tinh thần làm tôi tớ. Chúa Jesus kêu gọi chúng ta hãy trở nên những người tôi tớ. Đó là một phần hệ trọng trong đời sống của người Cơ Đốc, dầu bạn hầu việc trong chức vụ trọn thì giờ hay trong giới làm việc từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều.
Một hãng sản xuất thiết bị văn phòng tăng bội hàng triệu Mỹ kim mới đây đã học được nguyên tắc nầy. Đó là nguyên tắc Chúa Jesus đã dạy cho các môn đồ của Ngài (Dầu vậy, tôi không biết công ty ấy có nhận biết nguồn gốc Cơ Đốc của nguyên tắc ấy không). Bởi vì trong nhiều năm, tổ chức nầy đã từng chịu khổ do cổ phần trên thị trường đã bị giảm bớt, lợi tức sút giảm. Sự không hài lòng của khách hàng gia tăng, và những vấn đề khác. Mỗi năm, ngành quản lý cố gắng kéo công ty ra khỏi sự khó khăn của mình bằng cách đề ra những mục tiêu rõ ràng và khuyến khích mọi người làm việc chăm chỉ hơn. Nhưng dường như chẳng có gì tiến bộ.
Cuối cùng họ đề ra một phương pháp mới. Họ đầu tư một lượng tiền khổng lồ vào việc huấn luyện lại mọi người trong công ty ba năm. Từ những người đứng đầu khâu quản lý cho đến từng công nhân một trong số 80.000 người lao động của họ. Sự huấn luyện cải cách của họ là gì? Thật giản dị. Mỗi người trong số họ đều phải xác định xem ai là người họ phục vụ. Mỗi người tự hỏi chính mình “Khách hàng của tôi là ai?”
Thật dễ dàng để những người buôn bán suy nghĩ trong cụm từ khách hàng. Nhưng ai là các khách hàng của những người thư ký, ban quản trị trung gian hoặc các uỷ viên quản trị? Có thể nói rằng mọi người trong một công trình kinh doanh đều chấp nhận một công tác từ một người nào đó, thêm vào các giá trị, và tiếp tục chuyển đi. Vì vậy, các khách hàng của họ chính là những người đã được họ trao công việc của họ cho. Một số tập thể đã bỏ ra hàng tuần và thậm chí hàng tháng chỉ để nhận ra các khách hàng của họ – là điều không phải lúc nào cũng dễ nhận thấy.
Sau đó, qua một tiến trình được chính thức hóa, họ đã bắt đầu hỏi “Khách hàng của tôi cần gì?”. Sau khi câu hỏi được trả lời, một nỗ lực có hệ thống được thực hiện xác định cách tốt nhất để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Cuối cùng sự hồi đáp của khách hàng được quy định để bảo đảm tất cả những nhu cầu nào cần phải được thỏa đáp.
Trong một vài năm, công ty đã gia tăng tính hiệu quả, giảm được chi phí, chất lượng và sản lượng tăng lên, làm cho nhiều khách hàng vừa lòng hơn. Song ý tưởng mới mẻ táo bạo là họ dạy cho nhân sự của mình có thể được nói cách đơn giản như vầy : “Trong các ngươi, kẻ nào muốn làm lớn, thì hãy làm đầy tớ” (Mat Mt 20:26)
Nếu bạn giống như Chúa Jesus muốn hầu việc người ta, thì bạn sẽ luôn luôn trở nên giống như những người làm công của bạn. Bạn sẽ không tiến hành bất cứ sự thực hành kinh doanh gì mà buộc các công nhân của bạn phải đặt những gì liên quan đến công việc kinh doanh lên trước những ưu tiên Chúa ban cho con người, như việc chăm lo đến gia đình của họ. Chủ trương của bạn là yêu thương con người và sử dụng đồ vật, chứ không phải yêu quý đồ vật và sử dụng con người, sẽ tự nhiên tuôn xuống trên tất cả những người đang làm việc dưới quyền của bạn.
Một Ngày Trong Bảy Ngày
Một nguyên tắc quan trọng khác cho tất cả mọi Cơ Đốc nhân, kể cả những người thuộc giới làm việc từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều, đã được tuyên bố trong điều răn thứ tư: Chúng ta phải biệt ra thánh ngày Sabát.
Nhiều người hoảng sợ khi bạn đưa đề tài nầy ra. Họ hiểu biết sự dạy dỗ nghiêm nhặt đó theo khía cạnh tuân thủ quá mức luật pháp. Thật sự là có một số Cơ Đốc nhân vẫn tiếp tục giết chết niềm vui của ngày Sabát theo cách của những người Pharisi. Một người đã nhớ lại bà dì của cậu đã bảo một cô bé gái khi đang ngồi thêu trong ngày Chúa nhật “Con đang phạm ngày Sabát! Trong cõi đời đời, con sẽ phải hoàn tất những mũi khâu ấy bằng cái mũi của con!”
Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đã làm ra ngày Sabát. Nhưng quy tắc của Ngài muốn nhắn nhủ nhiều điều với một thế hệ mà những người trẻ tuổi đang xem thường, không chú trọng các nguyên tắc đó nữa.
Sabát, tức là bỏ qua công việc của một ngày trong tuần – là một sự cam kết kiên trì để tin cậy Chúa với công việc chưa hoàn tất của bạn. Nếu việc dâng phần mười và việc sống bằng đức tin trong lãnh vực tài chánh là tin cậy Chúa ngay cả khi không có đủ tiền bạc, thì đây là phần tương ứng của nó trong việc mang khối lượng công việc của bạn. Tất cả chúng ta đều có hai nguồn vốn quý, thì giờ và tiền bạc. Thường thì chúng ta không có tiền bạc để làm được điều Chúa đang dẫn dắt chúng ta làm, và chúng ta liên tục không có thời gian để hoàn tất công việc của chính mình. Bạn làm thế nào khi có quá nhiều việc phải làm mà lại có quá ít thời gian? Có phải bạn làm việc càng lúc càng vất vả hơn? – chong đèn ban đêm, làm việc suốt ngày trong tuần, hy sinh thì giờ của gia đình, giờ giải lao, công việc dự phần trong Hội thánh, việc tập thể dục, tất cả mọi thứ – để cố gắng làm hết mọi công việc?
Sự nghỉ ngơi trong ngày Sabát không chỉ là không xén bãi cỏ trong ngày chủ nhật. Có thể việc xén cỏ còn là một việc ích lợi hơn và mang tính nghỉ ngơi hơn, là một sự nghỉ ngơi cần thiết sau những sức ép bạn phải đối diện ở nơi làm việc. Sự nghỉ ngơi của ngày Sabát quan trọng đến nỗi Đức Chúa Trời đã kể nó vào một trong số mười điều răn.
Tôi mang ơn Fraser Haug, một anh em nhân sự của hội YWAM ở tại Kona, rất nhiều về những nhận định sáng suốt dưới đây của ông về ngày Sabát.
1. Đức Chúa Trời là người đầu tiên tuân giữ luật Sabát. Đáng lẽ Ngài đã tiếp tục tạo dựng thêm nhiều loài, nhiều cây cối, nhiều dãy ngân hà nữa. Nhưng Ngài đã dừng lại, tuyên bố với ý nghĩa “như vậy là đủ”.
2. Một luật Sabát khác được tuân giữ trong Ysơraên đó là việc gieo trồng mùa màng được thực hiện trong sáu năm, và qua năm thứ bảy thì không gieo trồng gì cả. Điều đó tạo ra một sự liều lĩnh về mặt tài chánh, thậm chí là một sự liều lĩnh đối với sự sống còn của họ. Bởi vì họ đã không tự cấp dưỡng bằng công việc của hai bàn tay, nên họ phải lệ thuộc vào Đức Chúa Trời bằng một phương cách lớn lao hơn.
3. Sẽ luôn luôn có nhiều công việc phải được làm trong số thời gian được cho. Nếu chúng ta được Đức Chúa Trời dẫn dắt mỗi ngày thực hiện những gì Ngài tỏ cho chúng ta và theo đúng thứ tự ưu tiên của Ngài, thì chính Ngài sẽ chịu trách nhiệm về những gì chúng ta không thể làm được. Đó là tinh thần của luật Sabát – cộng tác với Đấng Tạo hóa và đặt lòng tin cậy nơi Ngài.
Chìa khóa đối với sự yên nghỉ của luật Sabát là vâng lời. Điều đó giống như huấn luyện một con chó biết săn tìm. Bạn ném cây gậy đi sáu lần, bảo nó “Tìm đi!”. Nếu lần thứ bảy bạn ném cây gậy và bảo “Ngồi yên!” thì đó là một thử nghiệm lớn hơn về sự vâng lời của nó. Vì vậy chúng ta phải học tập để “ngồi yên” hoặc yên nghỉ, tin cậy Đức Chúa Trời làm trọn công việc Ngài đã khởi làm.
Có nhiều điều khác nữa liên quan đến việc giữ luật Sabát, những việc đó bao gồm sự suy gẫm và đánh giá làm lễ kỷ niệm, sự nên thánh, nghỉ ngơi và sự làm mới lại. Đức Chúa Trời đã định như vậy cho chúng ta để nếu chúng ta phạm luật Sabát, thì luật Sabát sẽ xâm phạm đến chúng ta. Tuy nhiên, tôi không cho rằng chúng ta phải định một ngày nhất định trong tuần làm ngày Sabát. Cần phải nhớ tờ lịch hiện nay của chúng ta không được hà hơi như Kinh Thánh đã làm. Nó đã được làm vào thế kỷ thứ mười sáu và có những sai sót cần phải được sửa lại cho đúng bằng các năm nhuận.
Chắc chắn là các vị mục sư không có ngày Sabát vào Chúa nhật được. Vì đó là một ngày làm việc dài và vất vả đối với họ. Cũng vậy, chúng ta cần các hoạt động bảo vệ của cảnh sát, của ngành cứu hỏa, cùng nhiều dịch vụ khác vào ngày Chúa nhật. Nhưng những người phải làm việc ngày Chúa nhật vẫn cần phải tuân theo nguyên tắc nghỉ ngày Sabát của Chúa. Hết thảy chúng ta đều phải có một ngày nghỉ trong bảy ngày.
Trong thế chiến thứ II, vì cớ nhu cầu về các vật liệu dùng cho chiến tranh, chính phủ Hoa Kỳ đã yêu cầu các nhà máy cố gắng có các tuần làm việc bảy ngày dành cho những công nhân. Họ giao nhiều hợp đồng đóng tàu cho các công ty.
Một trong các công ty nầy là Correct Craft, do ông Walter O.Mellon làm chủ. Ông Mellon là một Cơ Đốc nhân, vì vậy ông từ chối để các công nhân của mình trong các ca bảy ngày. Chính phủ phản ứng bằng cách dọa sẽ hủy hợp đồng của ông, nhưng ông đã thuyết phục họ hãy cho ông một ít thời gian. Ông bảo đảm rằng công ty của ông sẽ đáp ứng được các chỉ tiêu sản xuất của họ, mặc dầu các công ty cạnh tranh ông đang cho các công nhân của họ làm việc theo các ca bảy ngày. Sau một thời gian, thật rõ ràng – Cơ Đốc nhân đó và công ty của ông đã sản xuất vượt mức các công ty cạnh tranh với họ, mặc dầu họ chỉ làm việc có sáu ngày trong một tuần.
Bạn Sẽ Làm Gì Nếu Bạn Trở Nên Giàu Có
Một nguyên tắc quan trọng khác mà những Cơ Đốc nhân trong doanh nghiệp phải nhớ đó là: Đức Chúa Trời là Đấng ban cho bạn khả năng làm ra tiền bạc. Đó dường như là việc hiển nhiên, nhưng chúng ta đã nhanh chóng quên mất điều đó. Nếu trong tiến trình công việc bạn bắt đầu làm ăn tốt đẹp, thì hãy nhớ lời khuyến cáo của Kinh Thánh dành cho kẻ giàu:
Vậy khá coi chừng, chớ nói trong lòng rằng: “ Ấy nhờ quyền năng ta và sức lực của tay ta mà đoạt được những sản nghiệp nầy “. Hãy nhớ lại Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi, vì ấy là Ngài ban cho ngươi sức lực đoạt được những sản nghiệp … PhuDnl 8:17-18)
Và …
…Nếu của cải thêm nhiều lên
Chớ đem lòng vào đó (Thi Tv 62:10)
Phao Lô bảo Timôthê hãy nói cho những nhà buôn trong thời của ông đừng kiêu ngạo và đừng để lòng trông cậy nơi của cải không chắc chắn, nhưng hãy để lòng trông cậy nơi Đức Chúa Trời. Ông cũng bảo họ làm điều lành, làm nhiều việc phước đức và ban phát rộng rãi (ITi1Tm 6:17-19)
Tất cả các Cơ Đốc nhân đều phải rộng rãi và ban phát, nhưng Đức Chúa Trời đã ban một số ta lâng đặc biệt cho một số người làm ra tiền để họ có thể dâng hiến nhiều hơn cho công việc Chúa. Chúng ta có thể gọi họ là “những người giàu có đầy dẫy Thánh Linh”. Phao Lô xem những người đó như là những người có ân tứ cứu giúp (ICo1Cr 12:29) hay là ân tứ ban phát (RoRm 12:8). Một trong nhiều cách Chúa cung ứng là bằng cách ban cho những người đó các ý tưởng để kiếm ra nhiều tiền. Một số người rụt lại trước ý tưởng về những Cơ Đốc nhân giàu có, vì họ tin rằng giàu có là bất chính. Họ cho rằng một khi ai đó đang giàu lên thì phải người nghèo đi. Nhưng tôi tin rằng các ý tưởng chỉ là điều hạn chế duy nhất đối với sự giàu có. Kiểm soát được các nguồn tài nguyên thiên nhiên thường là sự bảo đảm cho sự giàu có của một quốc gia. Nhưng đây là điều mâu thuẫn đối với Nhật bản, Singapore, Hôngkong, và Triều Tiên – các quốc gia nầy có rất ít nguồn tài nguyên thiên nhiên, dầu vậy họ đã thạnh vượng, hãy nhìn vào việc chế tạo những vi mạch, từ thứ cát vô giá trị – làm được rất nhiều việc khiến người ta giàu có trong thời đại của chúng ta1.
Nếu Chúa cho chúng ta quyền làm ra tiền, là những Cơ Đốc nhân chúng ta phải cẩn thận cầu hỏi Ngài cách sử dụng những đồng tiền ấy. Chúng ta không được bỏ những khoản tiền nhỏ cách miễn cưỡng vào chiếc đĩa dâng cho Đức Chúa Trời. Thay vào đó, phải có thái độ của một nhà doanh nghiệp giống như R.G.Le Tourneau, người đã dâng “phần mười” bằng chín mươi phần trăm của cải mình. Câu trả lời của ông ta là “Đừng hỏi tôi đã dâng cho Chúa bao nhiêu, nhưng vấn đề là tôi đã giữ lấy cho chính mình bao nhiêu tiền của Ngài”.
Khi Đức Chúa Trời ban phước và chúng ta kiếm được nhiều tiền hơn nhu cầu của mình, thì đó là lúc hãy cầu xin sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời. Hãy hỏi Ngài…
Con phải làm gì với số tiền có dư nầy?
Có ai là người con nên dâng số nầy cho chăng?
Con có nên cất riêng nó ra và chờ đợi ý Ngài để tỏ cho con biết cách đầu tư nó vào trong nước Ngài.
Một lý do khác khiến các nhà doanh nghiệp phải giữ sự ban cho rộng rãi đó là vì họ đang hoạt động trong một thế giới bị Vua Tyrơ cai trị. Như chúng ta đã thấy trong một chương trước, chính mình Satan có dính líu sâu đậm vào vấn đề thương mại. Đây có thể là lãnh vực hoạt động lớn nhất của nó. Chúa Jesus đã đến để giải phóng việc thương mại và trao đổi. Khi chúng ta dâng hiến rộng rãi vì sự vinh hiển của Chúa, nhất là cho những công việc như của hội truyền giáo là nơi chúng ta không nhận được một lợi ích gì trước mắt, là chúng ta đang hủy phá công việc của ma quỷ trên thế giới này. Chúng ta đang xua đuổi vua Tyrơ và những tham muốn đang lan tràn bằng cách hướng về tinh thần rộng rãi ngược lại.
Đức Chúa Trời đang tìm kiếm những ống dẫn rộng mở mà Ngài có thể tin cậy, để qua họ và sự ban phát của họ, Ngài có thể ban phước cho những người khác. Nhưng nếu họ nắm chặt tay kia lại, thì có thể Ngài chặn lại nguồn tiếp trợ.
Một Nhà Truyền Giáo Kiểu Mới
Chúng ta cần một phương pháp mới toàn bộ đối với việc kinh doanh. Chúng ta cần những con người bằng lòng tìm kiếm Chúa và vâng theo ý muốn của Ngài trong những công việc từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều của họ. Chúng ta cần những người trước hết phải trung thành với Đức Chúa Trời và Vương quốc của Ngài, là những người thấy được công việc của họ là một phần quan trong công tác toàn thể của việc đưa quyền chủ tể của Chúa Jesus vào cả thế giới này.
Mới đây, tôi gặp gỡ một con người như vậy. Tôi không thể nêu tên ông ta vì tính tế nhị của hoàn cảnh của ông. Nhưng ông đã ý thức được sự kêu gọi của Đức Chúa Trời cho công việc truyền giáo và đã đi đến một quốc gia nơi có nhiều sự hạn chế trong việc giảng Tin lành. Ở tại đó, ông thành lập một nhà máy sản xuất điện tử. Trong một vài năm, việc kinh doanh của ông phát triển phải thuê đến hàng trăm người.
Khi ông bằng lòng để Chúa là tác nhân trực tiếp trong trí tưởng tượng của mình, ông đã phát minh được những thiết bị điện tử độc đáo. Ví dụ, ông đã cho tôi xem một thứ, chỉ dầy hơn thẻ tín dụng một tí, như là một quyển truyền đạo đơn chứa đựng một sứ điệp Phúc âm nói trong vòng 30 phút được ghi lại bằng mạch điện tổng hợp, nó không đòi hỏi một loại máy móc nào cần có để sử dụng cả. Một phát minh khác nữa là một chiếc radio cầm tay chạy bằng năng lượng mặt trời, bấm sẵn để nghe chỉ một kênh mà thôi – một đài phát thanh Cơ Đốc chủ yếu phát cho vùng có Cơ Đốc giáo. Không phải tất cả các phát minh của ông đều cho mục đích truyền giáo. Dĩ nhiên, nhưng những điều kể trên đã làm tôi thích thú đặc biệt.
Một trong những ý tưởng khác của ông nữa là đặt xen kẽ các Cơ Đốc nhân với những người ngoại trong dây chuyền lắp ráp của ông, để những người tin Chúa có thể dễ dàng làm chứng hơn trong suốt một ngày làm việc.
Bạn tôi có phải là một nhà truyền giáo không? Hẳn là không theo ý nghĩa truyền thống xưa nay, phải là một người được ban chấp hành hội truyền giáo cử đi, với chiếc mũ thầy dòng và một quyển Thánh Kinh lớn. Nhưng theo một cách khác thì anh ta chính là một người truyền giáo. Chúng ta cần có thêm hàng ngàn người như anh ta – người dám đầu phục Chúa và để cho Ngài chăm lo công việc kinh doanh của chính mình.

Ghi chú : Chương 9
1. Xem quyển “The Creation of Wealthy and The Alleviation of Poverty”. Phần phụ lục