Từ lâu người Việt Nam đã biết có Ông Trời, tin Ông Trời và cầu khẩn Ông Trời. Niềm tin nầy vốn có trong tiềm thức của người dân Việt ngay cả trước khi có các tôn giáo khác du nhập vào nước ta. Niềm tin nầy đã thể hiện qua ngôn ngữ và qua nếp sống của chúng ta.

KÊU TRỜI

Điều dễ hiểu nhất và không ai phủ nhận được là hễ gặp bất cứ việc gì bất chợt xảy đến, dù vui hay buồn, dù tốt hay xấu, câu nói buột miệng của người Việt Nam trước hết là kêu, “Trời ơi!” giống như người Mỹ kêu, “Oh my God!”

Khi rủi ro đứt tay, vấp chân, té ngã, người ta kêu Trời. Khi gặp buồn khổ, chán nản, chết chóc, thất bại, người ta kêu Trời. Khi thành công, hạnh phúc, bình an, người ta nói Nhờ Trời. Khi gặp tai nạn người ta kêu Trời cứu. Chúng ta thường nói, “Cầu Trời cho tai qua nạn khỏi.”

KÍNH TRỜI

Tuy không biết rõ Ông Trời là Đấng như thế nào, nhưng người Việt Nam ai cũng kính Trời, vì hiểu rằng ta có đây là vì có Ông Trời. Trong ngôn ngữ bình dân, dù là câu nói vui đùa, mỗi khi xưng hô mà nhắc đến Trời thì người ta không dám nói thiếu chữ Ông đi trước chữ Trời. Người ta gọi Ông Trời với lòng tôn kính. Người Tin Lành tôn thờ Ngài nên gọi Ngài là Đức Chúa Trời. Một cô gái quê vui đùa hỏi bí bạn trai:

Thấy anh hay chữ

Em hỏi thử đôi lời

Thuở tạo thiên lập địa

Ông Trời tròn ai xây?

CẦU TRỜI

Người Việt phần lớn sống bằng nông nghiệp, biết rằng mùa màng được hay mất cũng do Trời.

Nhờ Trời năm nay được mùa!

Người nông dân lúc nào cũng tâm nguyện cầu Trời cho cơm no áo ấm:

Lạy Trời mưa xuống

Lấy nước tôi uống

Lấy ruộng tôi cày

Lấy đầy bát cơm…

Chúng ta truyền tụng về ơn Trời bằng những câu ca dao, bài hát bình dân:

Nhờ Trời mưa thuận gió hòa

Nào cày nào cấy trẻ già đua nhau.

hoặc

Lạy Trời mưa thuận gió đều

Cho đồng lúa tốt, cho chiều lòng em.

Người Việt thường tôn trọng chữ hiếu và mong cho cha mẹ sống lâu, gia đình được phước. Vì thế họ lập bàn thờ Ông Thiên để thờ Trời ngay trước cửa nhà. Người con có hiếu từng đêm đến trước bàn thờ cầu khẩn:

Mỗi đêm mỗi thắp đèn Trời

Cầu cho cha mẹ sống đời với con.

TIN TRỜI

Trải bao đời, người Việt tin Ông Trời là Đấng Tạo Hóa, tạo thiên lập địa, Đấng cầm quyền sống chết, làm chủ vận mệnh muôn loài, quyền phép vô cùng. Người Việt Nam chúng ta đều quen thuộc với những khái niệm:

Thiên sinh vạn vật, duy nhân tối linh

Đại phú do Thiên, tiểu phú do cần

Trời sinh voi sinh cỏ

Trời cho ai nấy hưởng

Trời kêu ai nấy dạ

Sống nhờ ơn Trời, chết về chầu Trời.

cũng có câu,

Trời cho không ai thấy, Trời lấy không ai hay.

Người Việt công nhận và tin tưởng Ông Trời cầm quyền thành bại trong cuộc sống của loài người:

Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên.

Người Việt tin Trời là Đấng công bình, cầm quyền họa phúc, vì vậy đã thường nhắn nhủ với nhau:

Ở hiền thì lại gặp lành

Những người nhân đức Trời dành phúc cho.

Người Việt cũng tin tưởng,

Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhân

nghĩa là Trời không phụ bạc người có lòng tốt bao giờ.

Trong hôn nhân lứa đôi, người Việt tin tưởng hạnh phúc vợ chồng là do Ông Trời sắp đặt:

Duyên ba sinh Trời đã sẵn dành.

Khi thấy số phận không may hoặc tình duyên dang dở người ta thường ngửa mặt lên trời than thở, dường như muốn nói với Đấng Hóa Công hết nỗi lòng mình:

Chữ bạc mệnh ai ơi thấu với

Câu đa đoan Trời hỡi thấu chăng?

(trong Tự Tình Khúc của Cao Bá Nhạ).

Trong Cung Oán Ngâm Khúc cũng có câu:

Quyền họa phúc Trời giành mất cả

Chút tiện nghi chẳng trả phần ai.

Thi hào Nguyễn Du đã khuyên trong Truyện Kiều:

Đã mang lấy nghiệp vào thân

Cũng đừng trách lẫn Trời gần Trời xa

Thiện căn tự bởi lòng ta

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.

Kết luận Truyện Kiều, Nguyễn Du đã viết:

Ngẫm hay muôn sự tại Trời

Trời kia đã bắt làm người có thân

Bắt phong trần phải phong trần

Cho thanh cao mới được phần thanh cao.

NHỜ TRỜI

Lịch sử Việt Nam có ghi chép chuyện về danh tướng Lý Thường Kiệt, trong lúc kháng cự quân Tống xâm lăng, đã làm bốn câu thơ và loan truyền là do Thần Linh báo mộng ban cho để khích lệ tinh thần binh sĩ yên tâm đánh giặc:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại Thiên Thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Học giả Hoàng Xuân Hãn đã dịch như sau:

Sông núi nước Nam vua Nam coi

Rành rành một phận ở sách Trời

Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm

Bây sẽ tan tành, chết sạch toi.

Đây là cách áp dụng chiến tranh tâm lý, mượn oai Trời. Kết quả là quân lính nức lòng đánh giặc, quân Tống không tiến được đành giảng hòa. Rõ ràng câu chuyện nầy nói lên niềm tin mãnh liệt của dân tộc Việt nơi sự tể trị của Ông Trời, trong đó mọi vận mệnh nhân dân đất nước do Trời định đoạt.

Nước non là nước non Trời

Ai chia được nước ai dời được non.

THỜ TRỜI

Trải qua nhiều thế kỷ, ngay cả sau khi có các triết lý tôn giáo của Khổng Giáo, Lão Giáo và Phật Giáo truyền đến, người dân Việt vẫn lấy tín ngưỡng thờ Trời làm nền tảng để giữ gìn truyền thống dân tộc, gia đình. Cả ba tôn giáo chính nói trên đã góp phần củng cố thêm cho niềm tin hợp với Đạo Trời. Ngay cả Phật Giáo với khái niệm mờ nhạt về Ông Trời khi đến Việt Nam cũng phải chấp nhận ý niệm “Cầu Trời Khẩn Phật.”

Hợp lẽ Trời, thuận lòng người là đạo lý của người Việt Nam. Dù thực hành tín ngưỡng nào, người Việt ai nấy cũng công nhận:

Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong nghĩa là thuận với Trời thì còn, nghịch với Trời thì mất.

Chính vì đó mà người dân Việt thờ Trời. Ngay từ thời các Vua Hùng dựng nước, người ta đã biết thờ Trời. Mỗi năm nhà Vua thay mặt nhân dân lập đàn tế Trời, cầu Trời cho dân chúng được an cư lập nghiệp. Trong gia đình thì người cha thay mặt để cầu Trời phù hộ cho gia đình, con cháu hạnh phúc. Các triết lý du nhập vào từ Trung Quốc hoặc Ấn Độ đã không thể đồng hóa hoàn toàn tín ngưỡng của người dân Việt được. Trái lại những tín ngưỡng nào phù hợp với tình cảm thiêng liêng trong sáng của người dân Việt thì được tiếp thu với tinh thần chọn lọc, phê phán.

Chịu ảnh hưởng của đạo đức Lão Trang, người Việt thường bảo nhau về cách ăn ở cho phải đạo, nhất là đạo làm con, đạo vợ chồng:

Đạo làm con chớ hững hờ

Phải đem hiếu kính mà thờ mẹ cha.

hoặc

Cây xanh thì lá cũng xanh

Cha mẹ hiền lành để đức cho con.

hoặc

Người trồng cây hạnh người chơi

Ta trồng cây đức để đời mai sau.

Người Việt Nam cũng tiếp thu truyền thống giữ gìn “luân thường đạo lý” của Khổng Giáo thật nhuần nhuyễn và bình dị như cuộc sống gần gũi lễ phép thân thương kính trên nhường dưới trong gia đình. Luân là cái mà con người phải noi theo trong mối tương quan xã hội. Thường là sự việc không biến đổi theo không gian và thời gian mà con người phải giữ. Trong Ngũ Luân với quan hệ quân thần, phụ tử, phu thê, huynh đệ, bằng hữu, người Việt trân trọng những đức tính Trung, Hiếu, Tiết, Nghĩa. Trong Ngũ Thường, người Việt trân trọng giữ gìn Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín theo đạo lý làm người.

Anh làm trai học đạo thánh hiền

Năm hằng chẳng trễ, ba giềng chớ sai.

Chữ hiếu được mọi người đặt lên hàng đầu:

Nhân sinh bách hạnh Hiếu vi tiên

Chữ rằng mộc bổn thủy nguyên

Làm người phải biết tổ tiên ông bà.

Bổn phận hiếu đễ được minh giải thêm:

Thờ cha mẹ ở hết lòng

Ấy là chữ Hiếu ở trong luân thường

Chữ Đễ có nghĩa là nhường

Nhường anh, nhường chị, lại nhường người trên

Ghi lòng tạc dạ chớ quên

Con em phải giữ lấy nền con em.

Trong tinh thần phê phán chọn lọc, người Việt đã phân biệt chân giả, đúng sai trong từng tín ngưỡng thực hành. Chẳng hạn:

Tu đâu cho bằng tu nhà

Thờ cha kính mẹ mới là chân tu.

Hoặc ai nấy đều đồng ý:

Dẫu xây chín bậc phù đồ

Không bằng làm phước cứu cho một người.

Người Việt Nam chúng ta phần lớn không tin ở thuyết luân hồi. Bằng cớ là nhiều người Việt thờ cúng ông bà, vì tin rằng vong linh ông bà vẫn còn đó. Mỗi năm nhân dịp Tết cổ truyền, người ta rước ông bà về vui Xuân với con cháu, rồi tiễn ông bà đi. Nếu tin ở thuyết luân hồi thì phải tin ông bà cha mẹ đã hóa kiếp thành người ngoại quốc nào khác, hoặc con thú nào đó trong rừng, hoặc một con vật nào đó trong bầy gia súc trong vườn, v.v. Nếu tin rằng ông bà đã luân hồi, đầu thai hoá kiếp, thì người ta sẽ không rước tiễn ông bà, cũng không dám ăn thịt hoặc giết chết một con vật nào. Rõ ràng là người Việt Nam chúng ta tin ở giá trị thiêng liêng và bất tử của linh hồn. Chúng ta tin ở đời sau. Chúng ta tin một cách mơ hồ rằng linh hồn của mọi người chết là về chầu Trời.

Người Việt Nam là dân tộc hiền hòa nhưng bất khuất. Lúc có cần ai nấy đều có thể chịu đựng hy sinh vì nghĩa lớn. Trong quan hệ bình thường, người Việt áp dụng tinh thần “dĩ hòa vi quí.”

Trong cuộc sống với nhiều điều không lý giải được, người Việt vẫn tin tưởng ở mệnh Trời, hy vọng một ngày mai tươi sáng hơn.

Không ai giàu ba họ

Không ai khó ba đời.

hoặc

Còn trời còn đất còn non nước

Có lẽ ta đâu mãi thế nầy?

Thánh Kinh chép: “Nhưng hễ ai đã tin nhận Ngài thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời” (Giăng 1:12).Như vậy, nếu hôm nay bạn thật lòng tin nhận Chúa, bạn đã trở thành con cái của Chúa rồi. Hãy tin nơi Lời Chúa, đừng tin cảm giác của bạn. Con đường sống đang mở ra thênh thang trước mắt bạn. Mời bạn đến gia nhập một Hội Thánh Tin Lành địa phương gần nơi bạn ở để cùng thờ phượng Chúa, học hỏi Lời Chúa và hầu việc Chúa. Bạn cần Hội Thánh để giúp bạn tăng trưởng tâm linh và đồng hành với bạn trên con đường theo Chúa. Chúc mừng bạn gia nhập vào gia đình của Đức Chúa Trời.

 

Mục sư Nguyễn Văn Huệ