Tổ chức Y tế thế giới đã xác định 25 yếu tố nguy cơ gây bệnh, tàn phế, tử vong đối với người cao tuổi. Trong đó, có 7 nguy cơ hàng đầu đối với sức khỏe mà người cao tuổi có thể phòng ngừa được.
Đó là các yếu tố nguy cơ sau:
Hút thuốc lá: Là yếu tố nguy hại nhất làm tăng nguy cơ ung thư phổi, gây ảnh hưởng xấu đến mọi bộ phận, đẩy nhanh tốc độ giảm khối lượng xương và chức năng hô hấp. Nguy cơ mắc các bệnh mạn tính của người cao tuổi có liên quan tỷ lệ thuận với thời gian và mức độ hút thuốc.
Ít hoạt động thể lực: Tham gia rèn luyện thể lực thường xuyên, điều độ có thể trì hoãn được sự suy giảm các chức năng trong cơ thể, làm giảm nguy cơ khởi phát các bệnh mạn tính ở người cao tuổi. Vận động không phải chỉ cần thiết cho cơ bắp, xương, khớp mà còn tác dụng đến toàn cơ thể. Cơ thể được rèn luyện đều đặn sẽ hoạt động hài hòa, cho người cao tuổi cảm giác dễ chịu, phấn khởi, yêu đời, trí óc sáng suốt và lao động có năng suất.
Dinh dưỡng không hợp lý: Chế độ ăn chất bột, chất béo làm giảm nguy cơ béo phì, các bệnh mạn tính và tàn phế ở tuổi già. Nhu cầu năng lượng của người 60 tuổi giảm đi 20%, ở người trên 70 tuổi giảm đi 30% so với người 25 tuổi. Cho nên, mỗi bữa trước đây ăn 3-4 bát cơm, nay chỉ nên ăn 1-2 bát. Chú ý theo dõi cân nặng hằng tháng. Cân nặng người cao tuổi không nên vượt quá số cm của chiều cao trừ đi 105. Ví dụ, người cao tuổi cao 165 cm, cân nặng không nên vượt quá 60 kg. Người cao tuổi không nên sử dụng các chất kích thích như rượu, bia.
Tai biến do thuốc: Người cao tuổi thường có một hoặc nhiều bệnh mạn tính, cho nên họ hay sử dụng thuốc chữa bệnh. Đôi khi thuốc lại được kê quá nhiều cho người già.
Không tuân thủ chế độ chăm sóc, điều trị: Sự tuân thủ điều trị bao gồm sử dụng thuốc theo hướng dẫn của thầy thuốc và duy trì chế độ ăn lành mạnh, tập luyện thể dục, không hút thuốc… Việc tuân thủ kém ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả điều trị, đến chất lượng sống. Lúc đó, những tiến bộ của y dược học cũng không làm gì được để giảm gánh nặng của bệnh mãn tính.
Nước không sạch và môi trường vệ sinh kém: Nếu triển khai rộng khắp toàn cầu việc cung cấp đủ nước và điều kiện vệ sinh cho bệnh nhân, ta sẽ tránh được 1,8 tỷ trường hợp tử vong do tiêu chảy (giảm 17% so với hiện nay). Nếu đạt được việc cung cấp nước máy, sẽ tránh được 7,6 tỷ trường hợp tiêu chảy hằng năm.
Trầm cảm và sa sút trí tuệ: Nhìn chung trong cuộc đời của mình, có từ 15 đến 40% người cao tuổi từng có một thời kỳ trầm cảm rõ rệt. Mặc dù tỷ lệ người cao tuổi mắc “hội chứng chán nản cao độ” này khá cao, ước tính khoảng 20-30%, nhưng rất ít bệnh nhân được quan tâm đầy đủ. Hơn 90% ca trầm cảm và sa sút trí tuệ không được phát hiện và ngay cả khi đã biết cũng không được điều trị đúng.
Lời khuyên ăn uống hợp lý cho người cao tuổi
Người già hoạt động ít nên khối cơ sẽ giảm đi 1/3 so với thời trẻ. Với người 70 tuổi, nhu cầu năng lượng giảm 30% so với lúc 20.
Vì vậy, họ nên ăn ít hơn lúc trẻ để tránh béo phì. Cần kiểm tra cân nặng thường xuyên để thể trọng luôn ở mức tối đa cho phép.
Cách tính cân nặng hợp lý cho người cao tuổi: Lấy chiều cao (tính bằng cm) trừ đi 100, rồi nhân với 90%.
Ví dụ: với người cao 150 cm, cân nặng hợp lý là 45 kg. Cách tính trên cho ta trọng lượng tối đa cho phép.
Tuổi càng cao, cơ thể càng giảm sức chịu đựng đối với chất ngọt. Vì vậy, người cao tuổi phải hạn chế ăn đường, bánh kẹo.
Nên dùng chất ngọt từ nguồn bột như cơm, bánh mì, vì chúng được tiêu hóa, hấp thu rồi dự trữ ở cơ thể, chỉ giải phóng từ từ vào máu
theo nhu cầu, không làm tăng đường huyết đột ngột.
Khi cơ thể thừa chất ngọt, nó sẽ chuyển thành mỡ dự trữ. Ở người cao tuổi, hoạt động của men lipase phân giải mỡ giảm dần và cơ thể có xu hướng thừa mỡ trong máu, dễ gây bệnh tim mạch. Do đó, cần hạn chế chất béo, chủ yếu dùng dầu thực vật.
Quá trình tiêu hóa hấp thu chất đạm cũng kém đi ở người cao tuổi. Sự tiêu hóa đạm thường đi đôi với quá trình thối rữa ở đại tràng, làm xuất hiện độc tố. Nếu lại bị táo bón, chất độc này bị hấp thu trở lại, gây nhiễm độc trường diễn.
Vì thế, cần hạn chế ăn thịt (nhất là thịt mỡ) và thay bằng cá. Nên ăn nhiều chất đạm nguồn gốc thực vật như đậu đỗ, lạc, vừng, đậu phụ vì chúng ít gây thối rữa và chứa nhiều chất xơ, có tác dụng giữ cholesterol thừa trong ống tiêu hóa, sau đó thải ra theo phân.
Người cao tuổi cần chú ý đề phòng thiếu nước, nhất là trong mùa hè. Để chống lại các gốc tự do gây lão hoá và bệnh tật, cần tăng cường sử dụng những chất chống oxy hóa (có nhiều ở rau qua).
Cách ăn của người cao tuổi:
– Tránh ăn quá no, đặc biệt khi có bệnh tim mạch.
– Nấu thức ăn mềm và chú ý ăn canh.
– Xây dựng thực đơn cho các bữa ăn, thay đổi món ăn giữa các ngày.
– Bữa ăn phải bảo đảm đầy đủ chất bột để cung cấp năng lượng, chất đạm, béo, rau xanh và hoa quả chín. Về nước uống, chỉ cần uống nước chín hoặc nước chè, hạn chế bia rượu.
– Đảm bảo vệ sinh thực phẩm.
Lưu ý cho người mắc bệnh tim mạch
Trời đang chuyển sang khí trời se lạnh của mùa thu. Những lưu ý sau sẽ rất có ích cho những bệnh nhân tim mạch.
1. Nhiệt độ quá thấp
Các chuyên gia cho biết trời lạnh sẽ làm mạch máu thu co nên những người bị xơ cứng động mạch dễ bị nghẽn tim.
Giải pháp: Cách duy nhất là dùng thuốc đều đặn, theo đúng chỉ dẫn của bác sĩ.
2. Thói quen sinh hoạt bị rối loạn
Tết chính là một trong những nguyên nhân khiến bệnh tim mạch trở nặng do sinh hoạt hằng ngày bị đảo lộn, ăn uống nhiều…
Giải pháp: Cố gắng duy trì thói quen đã thiết lập trước đó, ăn uống hợp lý, lựa chọn những thực phẩm tốt cho sức khỏe như mộc nhĩ, nấm hương…để làm món ăn chủ đạo trong ngày Tết. Đồng thời nhớ uống thuốc đúng giờ, đúng liều lượng.
3. Vận động quá độ vào sáng sớm
Người bị bệnh tim mạch thường phát bệnh vào chiều muộn và sáng sớm, chủ yếu là do huyết áp tăng, nhịp tim nhanh hơn, hooc-môn tăng tiết.
Giải pháp: Lựa chọn môn thể thao và thời gian vận động thích hợp
Nên tránh hoặc hạn chế tập luyện vào buổi sáng, thay vào đó là 1 thời điểm ấm áp trong ngày; tập các bài tập nhẹ nhàng như tập thái cực quyền.
Nguyên nhân gây tăng huyết áp và cách phát hiện sớm
Huyết áp là áp lực máu lưu thông tác động lên thành mạch. Huyết áp tối đa khi tim bóp tống máu (b/t:120mmHg), huyết áp tối thiểu khi tim giãn (b/t: 80mmHg).
Tất cả sách giáo khoa và các hướng dẫn điều trị tăng huyết áp trên thế giới đều chọn ngưỡng gọi là tăng huyết áp đối với người từ 18 tuổi trở lên khi người đó có ít nhất một trong hai số huyết áp sau:
– Huyết áp tối đa lớn hơn hoặc bằng 140mmHg
– Huyết áp tối thiểu lớn hơn hoặc bằng 90mmHg.
Ví dụ, nếu con số huyết áp là 150/80, 130/100 hoặc 150/90mmHg sau nhiều lần đo đều được gọi là tăng huyết áp.
Một cách đầy đủ, tăng huyết áp là một hội chứng tim mạch tiến triển được khẳng định khi: (1) huyết áp đo tại cơ sở y tế lớn hơn hoặc bằng 140/90mmHg hoặc khi đo tại nhà và khi theo dõi huyết áp lưu động 24 giờ lớn hơn hoặc bằng 135/85mmHg hoặc (2) chỉ số huyết áp không tăng nhưng có bằng chứng tăng huyết áp như đang dùng thuốc hạ huyết áp hoặc có biến chứng như bệnh tim do tăng huyết áp, tai biến mạch máu não.
Tăng huyết áp được chia làm hai loại là tăng huyết áp nguyên phát và tăng huyết áp thứ phát, trong đó tăng huyết áp nguyên phát (tăng không rõ nguyên nhân) chiếm đến 93%-95%. Còn tăng huyết áp thứ phát là từ một nguyên nhân nào đó, chẳng hạn do hở van động mạch chủ; u tủy thượng thận; do bệnh thận; cường giáp; do sử dụng thuốc làm giữ muối, nước…
Ở những trường hợp tăng huyết áp không rõ nguyên nhân, người ta nghĩ đến nhiều yếu tố phối hợp với nhau gây tăng huyết áp như: tuổi tác cao, giới tính (nữ ở độ tuổi sinh đẻ ít mắc bệnh tim mạch hơn nam giới), di truyền (cha mẹ mắc bệnh tăng huyết áp, sẽ có một tỷ lệ con cũng bị tăng huyết áp), béo phì, tiểu đường, hút thuốc lá, ít vận động, stress, thói quen ăn mặn…
Điểm khác biệt là tăng huyết áp có nguyên nhân thì chữa triệt để được, ví dụ tăng huyết áp do hẹp động mạch thận thì sau khi nong động mạch hẹp, huyết áp bình thường trở lại, không phải uống thuốc lâu dài.
Đo kiểm tra là cách đơn giản nhất, duy nhất để phát hiện sớm tăng huyết áp nhằm điều trị kịp thời. Để đo huyết áp, người được đo cần được nghỉ khoảng 5 phút trước khi đo; không sử dụng các chất kích thích trước đó 2 giờ (bia, rượu, thuốc lá, cà phê… ); không dùng thuốc cường giao cảm (như một số thuốc nhỏ mũi…). Với người lớn, dù trong người thấy bình thường, nhưng cũng cần đo huyết áp kiểm tra định kỳ hằng năm.
Thay đổi hành vi, lối sống không có lợi cho sức khỏe như hút thuốc lá, uống rượu, bia quá độ… chế độ dinh dưỡng cần giảm muối, bớt mỡ, tăng cường rau, quả, trái cây tươi; vận động thể lực đều đặn… là biện pháp hữu hiệu để phòng chống bệnh tăng huyết áp.
Thực hiện lối sống lành mạnh phòng chống tăng huyết áp.
– Hằng ngày tập thể dục, đi bộ 30-45 phút.
– Ăn nhạt.
– Tăng cường ăn rau xanh và hoa quả tươi.
– Hạn chế ăn mỡ động vật và thức ăn chứa nhiều cholesterol.
– Hạn chế uống rượu bia.
– Không hút thuốc lá, thuốc lào
– Làm việc và nghỉ ngơi hợp lý.
Tiểu đường làm tăng nguy cơ mất trí nhớ
Một nghiên cứu mới ở Nhật Bản cho thấy, người bị tiểu đường có nguy cơ mắc bệnh Alzheimer hoặc các loại bệnh mất trí khác tăng cao gấp đôi.
Nhóm nghiên cứu do Tiến sĩ Yutaka Kiyohara thuộc Đại học Kyushu ở Fukuoka chủ trì đã theo dõi hơn 1.000 đàn ông và phụ nữ trên 60 tuổi.
Những người nói trên đã trải qua một cuộc thử nghiệm dung nạp glucose sau một đêm nhịn đói để xem họ có bị bệnh tiểu đường hay không.
Theo báo Los Angeles Times, các đối tượng này được theo dõi trong 15 năm. Trong thời gian đó, 232 người trong số họ bị mất trí nhớ.
So với những người có mức dung nạp glucose bình thường, những người bị tiểu đường có nguy cơ bị một dạng bệnh mất trí nhớ tăng 74%, sau khi đã xem xét các yếu tố rủi ro khác như tuổi tác, chỉ số trọng lượng cơ thể và một loạt tác nhân liên quan đến lối sống.
Alzheimer là dạng bệnh mất trí nhớ phổ biến nhất trong cuộc nghiên cứu. Nhưng nhóm chuyên gia Nhật cũng ghi nhận sự gia tăng nguy cơ mắc bệnh mất trí do tổn thương mạch não (vascular dementia).
Theo trang tin Top News, các nhà nghiên cứu Nhật cũng ghi nhận rủi ro bị chứng mất trí nhớ tăng cao khi đường huyết vẫn ở mức cao 2 giờ sau bữa ăn.
“Phát hiện của chúng tôi nhấn mạnh nhu cầu xem bệnh tiểu đường như là một yếu tố rủi ro mắc bệnh mất trí nhớ”, ông Kiyohara cho biết.
Kết quả nghiên cứu được công bố trên chuyên san Neurology số mới nhất.
Lợi ích từ việc ngủ đủ 7 tiếng/ngày
Người lớn cần 7-9 giờ ngủ vào ban đêm để hoạt động tốt vào ngày hôm sau. Dưới đây là những lý do tại sao.
1. Tốt cho não: Ngủ quá ít có thể làm chậm bộ nhớ, giảm năng lực học tập và khả năng nhận thức, bao gồm cả tư duy phê phán, kỹ năng toán học và định hướng không gian. Nó cũng có thể gây ra khó chịu và thường liên quan tới trầm cảm.
Ngủ không đủ giấc có thể làm thay đổi độ nhạy cảm của não dẫn truyền thần kinh, tăng tính dễ bị tổn thương rối loạn tâm trạng.
2. Tốt cho tim: Những phụ nữ ngủ 5 giờ hoặc ít hơn 5 giờ mỗi đêm có xu hướng có dấu hiệu dễ bị viêm nhiễm hệ thống cơ thể cao hơn so với những người thường xuyên ngủ tới 7 giờ. Kết quả này được rút ra từ các nghiên cứu ở nước Anh.
Ngoài ra, một nghiên cứu tại Đại học Columbia ở thành phố New York cho thấy, ngủ quá ít làm tăng nguy cơ phát triển bệnh cao huyết áp trong khoảng thời gian 10 năm.
3. Tốt cho cân nặng: Không được nghỉ ngơi đầy đủ có thể làm thay đổi mức độ của các kích thích tố điều chỉnh sự thèm ăn và cảm giác no lâu. Đó chính là lý do tại sao thiếu ngủ lại luôn làm bạn có cảm giác đói và khiến bạn dễ bị tăng cân. Những phụ nữ ngủ ít hơn 5 giờ một đêm có một tỷ lệ tăng cân cao hơn đến 16 lần so với những người ngủ đủ 7 giờ, theo một nghiên cứu tại Đại học Case Western Reserve ở Cleveland.
4. Tốt cho hệ thống miễn dịch: Nếu không cho mắt nghỉ ngơi, rất có thể bạn sẽ tự làm tổn thương khả năng chống lại các bệnh cảm lạnh, cúm và các nhiễm trùng của mình và làm ảnh hưởng đến phản ứng của những lần tiêm chủng.
Nghiên cứu ở Đức phát hiện ra rằng, những người đã có một đêm ngủ đầy đủ sau khi được chủng ngừa viêm gan A sẽ phát hành nội tiết tố tốt hơn cho miễn dịch. Vì vậy, sau mỗi lần tiêm chủng, tốt nhất bạn nên ngủ đầy đủ.
5. Tốt cho hormone: Theo một nghiên cứu tại Đại học Dalhousie ở Halifax, Nova Scotia thì giấc ngủ thất thường có thể gây ra biến động bất thường ở mức độ cortisol (hormon stress). Nghiên cứu tại Đại học Columbia nhận thấy rằng, thường xuyên ngủ 5 giờ hoặc ít hơn 5 giờ mỗi đêm có liên quan đến kháng insulin và tăng nguy cơ của bệnh tiểu đường type 2.
Ăn rau, quả “trắng” có thể tránh đột quỵ
Các nhà nghiên cứu Hà Lan mới đây đã phát hiện ra bữa ăn hàng ngày nhiều rau, quả như táo, lê, rau cải trắng, có thể bảo vệ chúng ta tránh được các cơn đột quỵ.
Câu nói “một quả táo giúp bạn tránh xa bác sỹ” thật sự vô cùng hữu ích đối với chế độ ăn uống hàng ngày của chúng ta.
Nghiên cứu được tiến hành bởi các nhà khoa học đến từ Đại học Wageningen, Hà Lan, thực hiện trên 20.000 người trưởng thành có độ tuổi trung bình là 41. Tất cả trường hợp này đều không có các bệnh về tim mạch. Những người tham gia nghiên cứu phải trả lời bảng câu hỏi về thực phẩm họ sử dụng hàng ngày.
Tình trạng sức khỏe của những người tham gia nghiên cứu được theo dõi trong 10 năm. Kết quả có 233 trường hợp bị đột quỵ.
Các nhà khoa học thấy rằng, nguy cơ đột quỵ của những người không thường xuyên ăn nhóm rau quả trắng là 52%.
Mặc dù trước đây đã có nhiều nghiên cứu về lợi ích của rau quả đối với cuộc sống khỏe mạnh của con người, song đây là lần đầu tiên một nghiên cứu cụ thể cho thấy mối liên hệ giữa đột quỵ với màu sắc nhất định của trái cây và rau quả.
Hy vọng mới cho các bệnh nhân bị chứng đột quỵ
Một nghiên cứu mới của các nhà khoa học Australia về kích thích tố từ tính đang mang lại hy vọng cho các nạn nhân bị đột quỵ bằng cách “khởi động lại” não bộ nhằm hồi phục chức năng nuốt của bệnh nhân.
TS về bệnh học thuộc Trường Đại học Adelaide, ông Sebastian Doeltgen cho biết, các bệnh nhân bị đột quy thường chịu tổn thương ở một số vùng của não bộ, vốn chịu trách nhiệm điều khiển các cơ ở miệng và họng.
Với việc sử dụng máy kích thích từ tính, các nhà khoa học có thể tạo ra dòng điện trong não nhằm kích thích các tế bào thần kinh có chức năng kiểm soát hoạt động nuốt. Tổng cộng có 32 cặp cơ tham gia vào hoạt động nuốt và tất cả các cơ này phải làm việc nhịp nhàng để chuyển thức ăn và nước uống vượt qua quãng đường từ môi xuống tới dạ dày.
Mỗi năm tại Australia có khoảng 60.000 người bị đột quỵ, trong đó hơn 35.000 người trong giai đoạn đầu gặp phải các vấn đề về nuốt.
Nhóm của TS Doeltgen là nhóm nghiên cứu duy nhất tại Australia sử dụng kích thích từ tính và luyện tập não để phát triển các phương pháp phục hồi mới đối với các bệnh nhân bị rối loạn chức năng nuốt.
Chính phủ liên bang Australia đã tặng 300.000 ASD cho Đại học Adelaide để nghiên cứu các liệu pháp điều trị rối loạn chức năng nuốt của các bệnh nhân đột quỵ.
Ăn chocolate có tác dụng như tập thể dục
Nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc Trường Đại học bang Wayne (Mỹ) chỉ ra rằng, ăn chocolate đen giúp tăng cường cơ bắp tương tự như việc tập thể dục, thông tin trên Daily Mail cho hay.
Chocolate đen chứa chứa hợp chất epicatechin tự nhiên, có tác dụng cường sự phát triển của cơ bắp, tương tự tác dụng của các hoạt động thể dục, như đi, chạy bộ. Ngoài ra, ăn chocolate kết hợp với thể dục thường xuyên giúp cơ bắp chắc khỏe hơn 50% so với chỉ tập thể dục.
Các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu trên chuột. Những con chuột ở độ tuổi trung niên được chia thành 3 nhóm. Nhóm thứ nhất được cho ăn một loại epicatechin được chiết xuất từ hạt ca cao 2 lần/ngày và trong vòng 15 ngày. Nhóm thứ 2 cho tập thể dục 30 phút/ngày. Nhóm cuối cùng không tập thể dục cũng như không được cho ăn epicatechin.
Kết quả, nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng, chất epicatechin có tác dụng tăng cường cơ bắp, tương tự như các hoạt động thể dục như chạy hay đạp xe. Các nhà khoa học hy vọng, chất epicatechin cũng có tác dụng tương tự trên người, giúp điều trị chứng lão hóa cơ ở độ tuổi trung niên.
Các nhà khoa học phát hiện thấy rằng, hợp chất epicatechin giúp cơ thể chuột sản xuất ra nhiều chất mitochondria – cung cấp năng lượng cho các tế bào trong cơ thể – tăng số lượng ống mao dẫn mang ôxy tới các cơ bắp.
TS Moh Malek, người đứng đầu nghiên cứu cho biết: “Các hoạt động thể dục như chạy hay đạp xe giúp tăng mitochondria trong các tế bào cơ. Nghiên cứu của chúng tôi đã phát hiện thấy rằn,g chất epicatechin cũng có tác dụng tương tự, đặc biệt ở vùng tim và cơ xương”.
Phương pháp mới chẩn đoán và phòng ngừa viêm xương khớp
Một phương pháp mới giúp các bác sỹ chẩn đoán viêm xương khớp ở giai đoạn sớm có thể sẽ giúp trì hoãn tiến triển bệnh này tới nhiều năm hoặc ngăn chặn hoàn toàn bệnh.
Viêm xương khớp là một trong những bệnh mạn tính hay gặp nhất và là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tàn phế.
Một trong những vấn đề của viêm xương khớp là việc chẩn đoán và theo dõi bệnh trước khi các triệu chứng xuất hiện rõ ràng. Do đó, rất khó thay đổi hoặc trì hoãn tiến trình bệnh. Cách đây vài năm, các nhà nghiên cứu thuộc Trường Đại học Lund và Trường Y Harvard đã phát triển một phương pháp để đánh giá mức độ viêm xương khớp sử dụng máy chụp cộng hưởng từ, thậm chí ở giai đoạn rất sớm.
Các nhà nghiên cứu cho biết, đây là một tiến bộ lớn, song một vấn đề là các biện pháp đánh giá hiện nay chỉ có thể thực hiện trên một phần sụn hạn chế. Hiện tại, các nhà nghiên cứu đang cải tiến phương pháp này để có thể tìm hiểu tất cả các phần sụn ở khớp cùng một lúc.
Phương pháp cải tiến này hiện đã được thử nghiệm trên cả người khỏe mạnh và người bị viêm xương khớp, kết quả cho thấy, bệnh hiện nay có thể theo dõi bằng các cách mà trước đây không thể thực hiện được.
Các tác giả hiện tại đang tiếp tục nghiên cứu để phương pháp này có thể được các bác sỹ dễ dàng sử dụng. Họ hy vọng rằng, phương pháp này cũng sẽ có ý nghĩa cho việc phát triển các thuốc trong tương lai.
Việc sử dụng giày cao gót thường xuyên có thể làm gia tăng nguy cơ mắc viêm khớp
Độ cao của giày cao gót không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động đi lại của người sử dụng mà còn có tác động rất lớn đến sức khỏe. Mới đây, các nhà khoa học Anh vừa phát hiện ra rằng: Việc sử dụng giày cao gót thường xuyên có thể làm gia tăng nguy cơ mắc viêm khớp.
Lý giải cho điều này, GS Anthony Redmond – chuyên khoa xương khớp thuộc Trung tâm Chăm sóc sức khoẻ cộng đồng của Anh cho biết: Các nghiên cứu cho thấy, giày cao gót có thể khiến thay đổi cấu trúc xương, khớp, làm gia tăng áp lực lên bàn chân, mắt cá chân và khớp gối. Điều này gây ra đau đớn và tạo sức ép lên các khớp xương, ảnh hưởng về lâu dài là dẫn tới tình trạng viêm khớp.
Hiện có khoảng ít nhất 8 triệu người tại Anh đang phải đối mặt với tình trạng viêm khớp, trong đó có một con số không nhỏ là những phụ nữ làm việc trong các công sở và những người chịu ảnh hưởng từ thói quen đi giày cao gót. Một cuộc điều tra mở rộng trong xã hội cũng cho thấy: Trong số 2.000 người được hỏi, có tới hơn một nửa phụ nữ cho biết họ thường xuyên sử dụng giày cao gót, hoặc chủ yếu là đi giày cao gót từ 3-5 cm. Theo GS Anthony Redmond, điều này thực sự không tốt cho sức khỏe của các khớp chân. Phụ nữ chỉ nên mang giày với độ cao từ 2-3 cm để giảm áp lực do trọng lượng cơ thể dồn lên đôi chân, đồng thời tránh những tác động có hại đến khớp xương.
MS NTC SUU TAM
Mọi bài vở cộng tác và góp ý xin gửi về info@nguonhyvong.com